Biện pháp phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 5 ( Sách thí điểm/Global/Smart start/Family&friend)
- Mã tài liệu: MT5002 Copy
Môn: | Tiếng Anh |
Lớp: | Lớp 5 |
Bộ sách: | Thí điểm/Global/Smart start/Family&friend |
Lượt xem: | 213 |
Lượt tải: | 1 |
Số trang: | 25 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Cừ |
Năm viết: | 2024-2025 |
Số trang: | 25 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Cừ |
Năm viết: | 2024-2025 |
Sáng kiến kinh nghiệm “Biện pháp phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 5 ( Sách thí điểm/Global/Smart start/Family&friend)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
Biện pháp 1: Tăng cường sử dụng tiếng Anh trong tiết học để rèn luyện khả năng phản xạ cho học sinh
Biện pháp 2: Nâng cao khả năng phát âm, nhấn trọng âm và ngữ điệu cho học sinh
Biện pháp 3: Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh thông qua các hoạt động nhóm
Biện pháp 4: Tổ chức hoạt động nói theo chủ đề để phát triển kỹ năng nói cho học sinh trong giờ học tiếng Anh
Mô tả sản phẩm
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, chúng ta đã thấy rõ ràng ngoại ngữ là yếu tố đặc biệt góp phần phát triển khả năng của mọi dân tộc. Cùng với sự phát triển vũ bão của cuộc “Cách mạng khoa học-công nghệ”, chiến lược phát triển ngoại ngữ đã trở thành bộ phận tất yếu của chiến lược con người cho tương lai ở mọi quốc gia. Ngoại ngữ tạo điều kiện để cho các dân tộc trên thế giới ngày càng hiểu và xích lại gần nhau hơn.Việt Nam đang đứng trước thách thức to lớn có tính chất sống còn trong lịch sử: phải tìm ra con đường sáng tạo để có thể hội nhập vào khu vực và thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa, xây dựng phát triển đất nước trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin. Vì vậy, mục tiêu chiến lược của ngoại ngữ gắn chặt với những mục tiêu lớn của giáo dục và đào tạo, được xác định trên 3 bình diện: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục đào tạo và trong sự phát triển của đất nước.
Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của EU (European Union). Các sự kiện quốc tế, các tổ chức toàn cầu…. cũng đều coi tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp thông dụng. Ngoài ra, tiếng Anh được hơn 400 triệu người trên toàn thế giới dùng làm tiếng mẹ đẻ, hơn 1 tỷ người dùng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Để tìm được một công việc chất lượng cao, giao tiếp với thế giới bên ngoài, tiếp cận những nguồn khoa học mới thế hệ trẻ Việt Nam đã chú trọng học tập và trau dồi vốn tiếng Anh qua nhiều hình thức. Vì vậy, nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực bắt buộc ngoài điều kiện có trình độ chuyên môn cao thì khả năng sử dụng tiếng Anh trong công việc và giao tiếp phải chuyên nghiệp, đây chính là vấn đề nghiêm trọng của người lao động và người sử dụng lao động. Do vậy việc giao tiếp tốt bằng tiếng Anh sẽ giúp cho mọi người có nhiều cơ hội làm việc tại các công ty nước ngoài với mức lương cao và có thể thăng tiến nhanh hơn trong công việc.
Nắm bắt được tình hình trên, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 1400/QĐ- TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 Về việc phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020”. Nhiệm vụ đặt ra là xây dựng và triển khai chương trình mới đào tạo ngoại ngữ bắt buộc ở cấp học phổ thông đạt các bậc trình độ như sau: tốt nghiệp tiểu học đạt trình độ bậc 1 theo Khung năng lực ngoại ngữ (KNLNN) hay là A1 của Khung tham chiếu chung của Châu Âu (Common European Framework of Reference, viết tắt CEFR); tốt nghiệp trung học đạt trình độ bậc 2 theo KNLNN hay là A2 của CEFR; tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trình độ bậc 3 theo KNLNN hay là B1 của CEFR.
Đối với các huyện miền núi nói chung, huyện … nói riêng việc dạy và học môn Tiếng Anh ở cấp tiểu học còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và tư liệu dạy học. Với trường tiểu học … nơi tôi đang công tác cũng nằm trong tình hình chung của huyện. Đa số học sinh có hoàn cảnh khó khăn, các em không có đủ đồ dùng học tập và sách giáo khoa để phục vụ cho việc học. Thực tế là các em chưa thực sự yêu thích môn tiếng Anh, còn ham chơi và không quan tâm việc học. Đặc biệt là trong việc thực hành nói tiếng Anh, thụ động trong việc học nói, các em chỉ học ở trên lớp, không học ở nhà vì vậy kỹ năng nói đối với học sinh hiện nay còn quá yếu. Các em thường ngại ngùng khi nói trước đám đông, không có thói quen tranh luận trong lớp hoặc nêu ý kiến của mình dù đúng hay sai, nhất là khi có mặt thấy cô giáo. Tâm lý của học sinh là một bạn trong lớp nói sai, các bạn trong lớp cười ồ lên, điều này làm hạn chế sự tham gia bài học của học sinh và làm học sinh thụ động khi nói tiếng Anh. Đây là lý do tại sao học sinh các cấp học nói chung, học sinh tiểu học nói riêng hạn chế trong phát âm và nói tiếng Anh. Ngoài ra, trong lớp học sinh tiểu học rất hiếu động, thiếu tập trung, hay nói chuyện… Ảnh hưởng rất nhiều trong việc học tiếng, thực hành nói tiếng Anh. Hơn nữa, trong một giờ học không đảm bảo đủ thời gian cho học sinh thực hành nói tiếng Anh vì các em phải học các kỹ năng khác.
Từ những khó khăn và trăn trở trên, tôi đã suy nghĩ tìm tòi, chắt lọc, học hỏi các đồng nghiệp đi trước rút ra một vài biện pháp có thể áp dụng trong việc rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Biện pháp phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 5” theo bộ sách Thí điểm đề nghiên cứu và đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng môn tiếng Anh trường Tiểu học … nói riêng, và tất cả các trường tiểu học trên địa bàn huyện … nói chung ngày một tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
– Đề tài đưa ra một vài biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 5 nhằm rèn cho học sinh thói quen học nói tiếng Anh qua các tiết học một cách chủ động.
– Nghiên cứu thực trạng, tìm ra các biện pháp, giải pháp giúp học sinh tự tin và mạnh dạn khi giao tiếp tiếng Anh trong lớp học và ngoài lớp học.
– Giúp học sinh đủ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Giúp các em giảm áp lực tự ti khi nói sai, tạo thói quen nói tiếng anh mọi lúc và thái độ học tích cực trong mỗi học sinh.
– Khuyến khích học sinh tự học, tự rèn luyện kỹ năng nói, tạo niềm vui và hứng thú học tiếng Anh trong trường tiểu học.
– Nâng cao chất lượng mũi nhọn trong nhà trường và của địa phương.
3. Phạm vi nghiên cứu
– Chương trình môn tiếng Anh lớp 5
– Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy kỹ năng nói trong giờ tiếng Anh cho học sinh lớp 5
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một vài biện pháp rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 5.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Những năm gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm đến chất lượng giáo dục của bộ môn tiếng Anh từ tiểu học đến Trung học phổ thông (THPT). Tiếng Anh được xem là môn học chính thức trong các cấp học và trong các kỳ thi. Biết được tầm quan trọng của tiếng Anh trong xã hội ngày nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều sự đổi mới về cách dạy và học môn tiếng Anh trong những năm gần đây như thay đổi sách giáo khoa (SGK); thay đổi phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tiếng Anh…
Xác định được tầm quan trọng của tiếng Anh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 1400/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 về việc phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020” với mục tiêu chung là: “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu cụ thể là triển khai thực hiện chương trình giáo dục 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt buộc ở các cấp học phổ thông. Ngày 26/8/2016, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã ký ban hành Chỉ thị số 3031/CT-BGDĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2016 – 2017 của ngành Giáo dục về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTH năm học 2016 -2017 như sau: “Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm đối với giáo dục phổ thông. Hỗ trợ các trường đại học sư phạm và cao đẳng sư phạm triển khai đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ theo chương trình ngoại ngữ mới; xây dựng chương trình và triển khai bồi dưỡng giáo viên giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, giảng dạy chuyên ngành bằng ngoại ngữ. Xây dựng, hoàn thiện chương trình, sách giáo khoa, hệ thống học liệu ngoại ngữ trực tiếp và trực tuyến đáp ứng mục tiêu đào tạo chung. Xây dựng chương trình, tài liệu dạy và học ngoại ngữ tăng cường, chuyên ngữ và song ngữ ở các cấp học và trình độ đào tạo. Triển khai đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên theo chuẩn đầu ra ngay trong quá trình và theo kết quả từng giai đoạn giáo dục, đào tạo. Tiếp tục xây dựng các định dạng đề thi theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và từng bước hoàn thiện, phát triển ngân hàng đề thi quốc gia. Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm khảo thí ngoại ngữ quốc gia. Tiếp tục triển khai dạy học ngoại ngữ theo đề án 2020 áp dụng cho chương trình mới hiện nay”.
Trong việc học ngoại ngữ, kỹ năng nói là một trong các kỹ năng quan trọng, đòi hỏi người học phải giỏi các kỹ năng nghe, đọc, viết, có vốn từ vựng tốt… Kỹ năng nói tốt giúp người học dễ dàng trở nên tự tin trước đám đông hơn, thể hiện được bản lĩnh của cá nhân trong mọi lĩnh vực…như giao tiếp với người nước ngoài, giao tiếp trong công việc, thậm chí là dễ dàng tìm được một công việc tốt…Do đó, tiếng Anh đã trở thành môn học thiết yếu trong chương trình giáo dục tiểu học. Vì học sinh tiểu học có một số khả năng học ngoại ngữ khá đặc biệt như: khả năng nắm bắt nghĩa, khả năng sử dụng một cách sáng tạo nguồn ngôn ngữ hạn chế, khả năng học gián tiếp, khả năng tích hợp với hoạt động vui chơi, khả năng ghi nhớ, khả năng chú ý, tư duy của học sinh, khả năng đối đáp và nói chuyện, vai trò của trí tưởng tượng. Yếu tố bên ngoài (khách quan) cũng tác động trực tiếp đến học sinh là chương trình, sách giáo khoa, giáo viên và điều kiện, môi trường học tập, gián tiếp tác động là gia đình và môi trường xã hội. Như mục tiêu giáo dục đã đưa ra học sinh cấp tiểu học cần đạt được sau khi học xong chương trình tiếng Anh tiểu học hiện nay là hiểu và giao tiếp được tiếng Anh một cách cơ bản, chính vì vậy giáo viên dạy tiếng Anh cần trau dồi về kiến thức, thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động. Lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động học nhằm giúp các em phát huy tính tư duy, độc lập, phát triển khả năng học tập, tạo niềm say mê và hứng thú đối với thầy và trò trong từng giờ học. Tạo cho các em niềm đam mê với môn học tiếng Anh nhằm giúp các em đủ khả năng và đạt được trình độ sau khi hoàn thành chương trình tiểu học.
2. Cơ sở thực tiễn
- Thuận lợi
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện …, của Ban giám hiệu nhà trường trong việc bồi dưỡng chuyên môn và đầu tư cơ sở vật chất. Giáo viên trẻ, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, yêu thương học sinh, có trình độ trên chuẩn. Giáo viên thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy, tìm tòi các cách thức mới phù hợp trong quá trình dạy học… Giáo viên có trình độ đại học sư phạm Tiếng Anh, đạt trình độ B2 theo khung tham chiếu châu Âu; biết ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đa số học sinh có khả năng tiếp thu tốt kiến thức, một số em có năng khiếu môn tiếng Anh. Đa số các em học sinh thích môn học tiếng Anh, thích khám phá, ham tìm hiểu và tích cực học môn tiếng Anh. Các em tích cực tham gia các cuộc thi của trường và ngành tổ chức. Cha mẹ học sinh rất khuyến khích con em mình học tiếng Anh vì họ biết được tầm quan trọng của tiếng Anh trong việc học ở các cấp phổ thông.
– Khó khăn:
Tuy nhiên, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Chưa có phòng học riêng phù hợp với học sinh để học sinh có thể phát huy khả năng giao tiếp. Sách giáo khoa thường xuyên thay đổi, học sinh phải làm quen với các phương pháp mới và cách thức học mới. Tranh ảnh dùng cho bộ sách không đủ để đáp ứng nhu cầu học tập và giảng dạy của học sinh và giáo viên. Trường có phòng học Tiếng Anh chuyên dụng nhưng đã xuống cấp không thể sử dụng được.
Đa số học sinh phát âm và nhấn trọng âm sai do các em bị ảnh hưởng giọng nói vùng miền. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn cách phát âm và nhấn trọng âm thường xuyên.
Học sinh ngại nói tiếng Anh trong giờ học do nhiều nguyên nhân khác nhau như: tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, ngại các bạn cười khi mình nói sai.
Do lớp học quá đông nên giáo viên ít có thời gian rèn luyện kỹ năng cho mỗi học sinh.
Kỹ năng nói của học sinh còn kém so với đọc và viết. Chưa ý thức được vai trò, mục tiêu của phát triển kỹ năng nói, nên vẫn còn một số học sinh chưa chủ động tự giác, thiếu tự tin.
Hệ thống bài tập luyện kỹ năng nói chưa phong phú để cuốn hút học sinh.
Giáo viên dành nhiều thời gian cho việc dạy chưa chú trọng hướng dẫn học sinh tự thực hành nói tại nhà. Học sinh còn lúng túng trong cách phát âm cũng như nhấn trọng âm sai, do đó học sinh nói tiếng Anh còn chưa lưu loát.
Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình. Đa số cha mẹ học sinh không biết và hiểu nhiều về tiếng Anh. Vì vậy, họ không thể chủ động trong việc hướng dẫn con học tiếng Anh và hướng dẫn con em mình sử dụng một số phần mềm tiện ích trong việc học và giao tiếp tiếng Anh.
Trưởng áp dụng dạy chương trình tự chọn với số lượng là 2 tiết tuần nên việc dạy theo tiến độ thường chậm hơn so với các trường dạy 4 tiết/tuần. Thời gian thực hành nói tiếng Anh trên lớp chưa đủ đảm bảo cho tất cả các em học sinh, cho nên đa số các em học sinh còn chưa tự giác thực hành tại lớp và tham gia vào tiết học một cách nghiêm túc.
- Giải pháp thực hiện
Biện pháp 1: Tăng cường sử dụng tiếng Anh trong tiết học để rèn luyện khả năng phản xạ cho học sinh
Với các em điều kiện sống ở nông thôn, môi trường Tiếng Anh chưa được nhiều, vốn từ vựng cũng còn hạn chế. Dù vậy, tôi vẫn tăng cường nói Tiếng Anh trên lớp, thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản như: Stand up, please: Sit down, please; Open your book, please; Close your book, please; Look at your book/the picture on page…; Listen and repeat; Come on; Go to the board…
Nhìn chung, lúc đầu nhiều học sinh còn bỡ ngỡ, chưa hiểu nhưng dần dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của tôi.
Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì tôi thường xuyên sử dụng trong lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt.
Không chỉ qua các mẫu câu mệnh lệnh đơn giản, mà học sinh tập cách phản xạ thông qua các tình huống trong thực tế.
Ví dụ:
Khi gặp thầy cô giáo, hay bạn bè, các em có thể chào nhau bằng những câu Tiếng Anh như Hello, Good morning, Good afternoon…Hay trò chuyện bằng những câu hỏi về bản thân What’s your name?, How are you?, What’s the weather like today?, What day is it today?, What is the date today?….
Những câu hỏi về đồ vật, sử dụng các đồ vật thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở… ) như các mẫu câu: What’s this?, What are these? …;
Các câu hỏi về màu sắc và vị trí: What colour is it? Where is this? Where are they?…
Tôi tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh. Cụ thể là thông qua các giáo trình có họa tiết đẹp, các bộ phim hoạt hình, các trò chơi, quảng cáo, các đồ dùng hay gặp… làm cho các em có hứng thú với các dòng chữ, âm thanh khác với tiếng Việt; chơi trò chơi và tập hát theo phim, theo đĩa, theo các bài hát Tiếng Anh. Có như vậy khả năng ngôn ngữ của các em mới phát triển được. Chúng ta đang tạo một môi trường xung quanh kích thích các em thấy rằng học Tiếng Anh là rất cần thiết.
Trong giờ học tôi đã sử dụng hình vẽ, cử chỉ…. các hành động khác phi lời nói để diễn đạt 1 từ. Khi nói chuyện bằng Tiếng Anh, cố gắng diễn đạt bằng mọi cách có thể được kể cả dùng điệu bộ.
Ví dụ:
–Khi đưa từ “ swim ” tôi có thể làm động tác đưa hai cánh tay ra bơi hay cụt từ “play table-tennis” thì tôi làm động tác đánh bóng bàn. Như vậy các em nhớ lâu hơn. Để học sinh nhớ nhanh và hiểu Tiếng Anh thì nhất thiết các em phải sử dụng nó. Cái cách chép đi chép lại 1 câu, 1 từ mới không còn hữu dụng nữa. Mà khi các em học được 1 từ mới, một mẫu câu mới thì phải sử dụng nó ngay trong tình huống thực tiễn hàng ngày. Do vậy, phương pháp luyện tập theo mẫu là rất quan trọng. Các em nên sử dụng Tiếng Anh ở nhiều nơi chứ không phải chỉ trong lớp học.
Đừng làm cho học sinh sợ hay ngại nói Tiếng Anh vì lo mình nói bị sai. Khuyến khích các em đừng bao giờ sợ mắc lỗi khi nói và viết Tiếng Anh. Chính s mạnh dạn là điều học tốt Tiếng Anh. Dạy các em biết cách hỏi lại hoặc đề nghị người nói nhắc lại nếu chưa hiểu rõ nghĩa.
Ví dụ: Can you say it again?
Can you repeat your question?
Mặt khác, giờ học Tiếng Anh luôn phải sôi nổi và tạo tâm lý nhẹ nhàng không gò bó về điểm số đánh giá kết quả học tập. Tôi luôn dành những lời khen cho học sinh, luôn hài lòng về học sinh.
Dạy Tiếng Anh qua tình huống giao tiếp là hay nhất. Dạy các em cố gắng đoán nghĩa của từ, câu bằng cách căn cứ nội dung bài đọc, bài nghe hoặc tình huống giao tiếp.
Can you guess the content of the dialogue?
How do you answer it?
Ví dụ: Khi dạy Unit 11 “What’s the matter with you ?” Lesson 1: Look, listen and repeat. (trang 6 – tiếng Anh 5 sách Thí điểm tập 2) Học sinh quan sát tranh và trả lời một số câu hỏi:
Who are they?
Where are they?
What are they talking about?
Từ những câu hỏi gợi ý đó, tôi tiếp tục đặt câu hỏi Can you guess the content of the dialogue? để xem học sinh có nắm được nội dung tình huống giao tiếp đó không. Sau đó hướng dẫn học sinh dựa vào tình huống đó và xây dựng một đoạn hội thoại dựa vào ngôn ngữ của mình.
Biện pháp 2: Nâng cao khả năng phát âm, nhấn trọng âm và ngữ điệu cho học sinh
– Mục đích: Giúp học sinh phát âm đúng, nhấn đúng trọng âm và nói đúng ngữ điệu của từ, câu. Tạo thói quen phản xạ nhanh cho học sinh khi trả lời các câu hỏi.
– Cách thức thực hiện: hướng dẫn học sinh cách học phát âm, nhấn trọng âm và ngữ điệu trong từ, câu qua các bài học cụ thể.
+ Bước 1: Hướng dẫn học sinh đánh trọng âm và ngữ điệu của từ và câu.
+ Bước 2: Bật băng, đĩa (giáo viên đọc); học sinh lặp lại nhiều lần (3-4 lần).
+ Bước 3: Yêu cầu học sinh đọc theo cặp đôi, nhóm; học sinh đọc cá nhân trước lớp (giáo viên sửa lỗi); hướng dẫn học sinh luyện đọc ở nhà.
– Ví dụ: áp dụng cách rèn luyện kỹ năng phát âm, nhấn trọng âm, ngữ điệu khi dạy Unit 1 “What’s your address ?” Lesson 3: Look, listen and repeat. (trang 10 – tiếng Anh 5 sách Thí điểm tập 2)
Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, nếu các em bước đầu học tiếng Anh mà phát âm không đúng thì sẽ thành thói quen ảnh hưởng không tốt trong quá trình học và giao tiếp sau này. Sau đây tôi xin đưa ra một số kiến thức mà bản thân chắt lọc cách thức phát âm, cũng như cách đọc ngữ điệu đơn giản, để giáo viên rèn cho học sinh khi dạy kỹ năng nói cho học sinh. Trong tiếng Anh phát âm (Pronunciation) gồm:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 155
- 1
- [product_views]
- 6
- 163
- 2
- [product_views]
- 8
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 125
- 4
- [product_views]
- 5
- 118
- 5
- [product_views]
- 8
- 110
- 6
- [product_views]
- 7
- 116
- 7
- [product_views]
- 0
- 188
- 8
- [product_views]
- 5
- 192
- 9
- [product_views]
- 1
- 187
- 10
- [product_views]