SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn
- Mã tài liệu: BM2082 Copy
Môn: | Toán |
Lớp: | 2 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 1483 |
Lượt tải: | 10 |
Số trang: | 28 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Bé |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 28 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Bé |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
Biện pháp 1: Chuẩn bị cho việc giải toán.
Biện pháp 2: Xây dựng các bước giải toán có lời văn
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải một số bài toán có lời văn
Mô tả sản phẩm
- PHẦN MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài:
Môn toán ở Tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt, sáng tạo. Môn toán là ”chìa khoá” mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường. Đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội.
Đối với học sinh tiểu học “giải toán có lời văn là một vấn đề hết sức cần quan tâm”. Bởi nó giúp học sinh biết cách giải toán và khả năng diễn đạt. Hiện nay việc đánh giá xếp loại học sinh Tiểu học dựa vào thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có rất nhiều điểm mới, thông tư không yêu cầu chấm điểm mà chỉ nhận xét và động viên các em. Đây cũng là lí do để giáo viên cần quan tâm và thường xuyên hơn với tất cả đối tượng học sinh trong lớp, khi học sinh học các môn học trong đó có môn Toán.
Năm học ………….tôi được phân công dạy lớp 2B. Tôi nhận thấy việc dạy các em giải toán có lời văn là hết sức cần thiết. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tư duy của các em còn chưa phát triển về mặt suy luận, phân tích, giải toán có lời văn ở Tiểu học sẽ góp phần giúp học sinh phát triển được năng lực tư duy, khả năng suy luận và kĩ năng giải toán đặt nền móng vững chắc cho các em học tốt trong việc giải toán ở các lớp trên. Mặt khác, việc giải toán có lời văn là một trong nội dung khó của chương trình toán lớp 2. Trong những tuần đầu dạy toán có lời văn, việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề quả là khó khăn. Một số em mới chỉ đọc được đề toán, chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi của giáo viên như: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi (tìm) gì? Khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải… Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp. Đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích luỹ nghiệp vụ do nhà trường tổ chức.
Từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” ở trường Tiểu học Đồng Lương.
- Mục đích nghiên cứu
– Tìm hiểu về nội dung dạy giải toán có lời văn trong chương trình môn Toán lớp 2.
– Giúp học sinh có một số kỹ năng giải các bài toán có lời văn sau:
+ Học sinh nhận biết các dạng toán có lời văn và biết tìm hiểu đề bài (thông qua cá nhân hoặc thảo luận nhóm).
+ Học sinh biết vận dụng tìm tòi lời giải cho bài toán có lời văn (qua nhóm hoặc cá nhân).
+ Học sinh giải được bài toán có lời văn, lời giải hợp lý và có kết quả đúng với yêu cầu của đề bài toán.
+ Học sinh biết kiểm tra, đánh giá kết quả của bài toán có lời văn.
III. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng để thực hiện đề tài là hoạt động học tập về giải toán có lời văn của học sinh lớp 2B nói riêng và học sinh khối 2 trong trường Tiểu học Đồng Lương nói chung trong năm học ………….
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu những tài liệu liên quan đến những vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát điều tra: Điều tra, phân tích, hệ thống hóa tài liệu thu thập thông tin có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức dạy thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của việc dạy giải toán có lời văn ở lớp 2 qua các tiết học.
- PHẦN NỘI DUNG
- Cơ sở lý luận
Trong dạy – học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc giải toán là “hòn đá thử vàng” của dạy – học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay, điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy, có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ đối với học sinh.
Toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình Toán Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình Toán lớp 1. Chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học Toán lớp 2 ở nước ta; thực hiện những đổi mới về cấu trúc nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới.
Nội dung môn Toán lớp 2 gồm 4 mạch kiến thức: Số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán. Những mạch kiến thức này không trình bày thành từng phần riêng biệt mà chúng luôn được sắp xếp xen kẽ với nhau. Trong đó, số học là mạch kiến thức trọng tâm, đóng vai trò “cái trục chính” mà các mạch kiến thức kia phải “chuyển động” xung quanh nó, phụ thuộc vào nó.
Nội dung dạy học giải toán có lời văn lớp 2 gồm:
– Dạy cách giải và cách trình bày giải các bài toán đơn về cộng, trừ, trong đó có bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn” một số các bài toán về nhân, chia (trong phạm vi bảng nhân, chia từ bảng 1 đến bảng 5) và bước đầu làm quen với việc giải bài toán có nội dung hình học (tính độ dài, tính chu vi các hình), các bài toán liên quan đến phép tính với các đơn vị đo đã học (cm, m, km, kg…).
– Rèn phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt (phân tích đề bài, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng nói và viết).
– Toán 2 không dạy các bài toán mang tính đánh đố học sinh nhưng nội dung các bài toán phong phú, gần với thực tiễn xung quanh các em, bài toán thường đặt ra dưới dạng giải quyết một tình huống có trong thực tiễn. Các bài toán có chung về hình thức chỉ có một phép tính, một câu trả lời, một đáp số, một cách giải duy nhất nhưng lại có sự khác nhau cơ bản về dấu của phép tính và ý nghĩa của các phép tính. Chính vì vậy, việc giúp học sinh nhận ra từng dạng, biết cách giải từng dạng, từng bài cụ thể để không nhầm lẫn là việc không dễ dàng.
Giải toán ở bậc Tiểu học nói chung và giải toán lớp 2 nói riêng là hoạt động quan trọng trong quá trình dạy và học Toán. Nó chiếm khoảng thời gian tương đối lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình môn toán.Việc dạy và học giải toán ở bậc Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thực hiện một cách đa dạng phong phú. Thông qua việc giải toán giúp học sinh ôn tập, hệ thống hoá, củng cố các kiến thức và kỹ năng đã học. Học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 2 chưa có đủ khả năng lĩnh hội kiến thức qua lý thuyết thuần tuý. Hầu hết các em phải tìm hiểu các bài toán qua sơ đồ trực quan. Từ đó mới dễ dàng rút ra kết luận, các khái niệm và nội dung kiến thức cơ bản. Các kiến thức đó khi hình thành lại được củng cố, áp dụng vào bài tập với mức độ nâng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thông qua hoạt động giải Toán rèn luyện cho học sinh tư duy logic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học nói riêng trong đời sống. Giải toán có lời văn giúp học sinh thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế, rèn luyện khả năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua việc trình bày lời giải một cách rõ ràng, chính xác và khoa học. Thông qua hoạt động giải toán hình thành nhịp cầu nối toán học trong nhà trường và ứng dụng toán học trong đời sống xã hội.
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp. Việc hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ xảo tính, vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không phải chỉ nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi học sinh phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng bộc lộ suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi học sinh phải biết làm tính thông thạo.
Dạy học giải toán có lời văn ở tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau:
– Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành đã học, rèn luyện kỹ năng tính toán bước tập dược vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn.
– Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, khêu gợi và tập dược khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
– Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em.
- Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Thuận lợi
Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đảm bảo cho việc dạy và học cho học sinh học 2 buổi /ngày.
Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép.
Giáo viên dạy lớp 2 đều có thâm niên công tác và tay nghề vững vàng, năng động, chịu khó học hỏi.
Nội dung chương trình Toán ở Tiểu học đã được xây dựng, thiết kế theo cấu trúc đồng tâm, phù hợp với khả năng tư duy và nhận thức của học sinh. Chương trình dạy và học Toán 2 theo chương trình mới đã tinh giản các nội dung lí thuyết, tăng cường luyện tập và thực hành, mức độ của bài tập và bài học phù hợp với chuẩn kiến thức và kĩ năng của môn học.
Nội dung dạy học “Giải toán có lời văn” được cấu trúc hợp lí, xen kẽ các mạch kiến thức khác, làm rõ mạch kiến thức số học. Khi học về phép cộng, phép trừ có các bài toán đơn làm rõ ý nghĩa phép cộng, phép trừ (đặc biệt có bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn”, liên quan đến phép cộng, phép trừ mà ở lớp 1, học sinh đã được làm quen khái niệm “nhiều hơn”, “ ít hơn” thông qua “so sánh” số lượng của hai nhóm đối tượng bằng cách nối tương ứng). Nôi dung các bài toán phong phú, đa dạng gần với thực tế đời sống giúp học sinh dễ cập nhật hơn.
2.2. Khó khăn
Sau 2 tuần thực học, tôi đã tiến hành khảo sát về cách giải toán và các kĩ năng giải bài toán có lời văn của học sinh lớp 2B trường Tiểu học Đồng Lương. Kết quả khảo sát thu được như sau:
Sĩ số | Giải toán thành thạo | Giải toán giải chậm | Chưa thành thạo | |||
SL | TL | SL | TL | SL | TL | |
17 | 1 | 5,9 | 2 | 11,8 | 14 | 82,3 |
Qua bài khảo sát của học sinh, tôi thấy học sinh thường mắc những sai lầm chung như sau:
Không tóm tắt được bài toán ngắn gọn bằng lời, ngại tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, không nắm được bản chất của bài toán.
Không phân tích và thiết lập được mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài toán dẫn đến giải sai bài toán.
Học sinh lười suy nghĩ nên còn lẫn lộn giữa cái đã cho và cái phải tìm.
Cá biệt một số em nắm được cách giải bài toán song kết quả chưa đúng, câu trả lời chưa rõ ràng, quên danh số.
Một số học sinh còn gặp khó khăn trong việc nhận dạng bài toán, đặc biệt là đặt lời giải. Cũng có nhiều học sinh khi giải bài toán về nhiều hơn, ít hơn theo mẫu có sẵn một cách rập khuôn, máy móc, thường có quan niệm (trong bài toán giải có chữ “nhiều hơn” làm tính cộng; “ít hơn” làm tính trừ) chưa nắm vững bản chất bài toán nên dẫn đến khi gặp những bài toán ngược học sinh không nắm hiểu được bản chất bài toán dẫn đến chưa tìm ra phương pháp giải toán phù hợp (cách giải sai). Khi giải xong bài rồi, dù còn thừa thời gian học sinh không có thói quen kiểm tra lại bài giải.
Mặt khác, trong quá trình trực tiếp giảng dạy ở lớp 2, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn còn chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra, có em còn đặt tính ngược, trình bày một bài toán chưa khoa học, chưa cân đối.
Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu của việc dạy – học toán hiện nay là: giúp học sinh nhận ra được đặc điểm, bản chất của bài toán, từ đó tìm ra phương pháp giải toán phù hợp. Đặc biệt, trong các dạng toán có lời văn nói chung ở lớp 2 thì dạng toán ngược nói riêng, tương đối khó đối với học sinh. Việc giúp các em phân tích, nắm vững bản chất của bài toán, tìm ra mối liên hệ giữa các dữ kiện trong bài để tìm ra cách giải, rèn cho học sinh các thao tác tư duy logic: phân tích – tổng hợp, so sánh, suy luận – khái quát. Điều này sẽ phát triển tư duy cho các em, giúp các em không chỉ học tốt môn toán mà còn học tốt các môn học khác. Đó cũng là nền tảng để các em học tốt ở các lớp trên.
Từ thực trạng trên, để giúp học sinh có kĩ năng giải toán, hứng thú trong học tập, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, hoàn thành được mục tiêu đã đề ra trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn” như sau.
- Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Chuẩn bị cho việc giải toán.
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán, mà một yếu tố không kém phần quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng Việt.
Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời, người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng Việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải toán một cách nhanh nhất.
Ở lớp 1, đến tuần 23 các em bắt đầu được làm quen và giải toán có lời văn. Yêu cầu các nhìn tranh vẽ để nêu phép tính, tập nêu tiếp câu hỏi, câu lời giải,…để hoàn chỉnh đề toán hoặc câu lời giải ở dạng đơn giản,…câu lời giải chỉ cần đúng.
Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là 35 phút, với nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều. Vì vậy, khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau truốt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở các tuần đầu của lớp 2, những tiết toán có bài toán giải, tôi thường dành
nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các
em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 8
- 198
- 2
- [product_views]
- 4
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 141
- 4
- [product_views]
- 4
- 166
- 5
- [product_views]
- 8
- 180
- 6
- [product_views]
- 7
- 166
- 7
- [product_views]
- 3
- 164
- 8
- [product_views]
- 2
- 184
- 9
- [product_views]
- 8
- 121
- 10
- [product_views]