SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1
- Mã tài liệu: BM1054 Copy
- MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài:
Mục tiêu chủ yếu đối với môn Tiếng việt ở lớp Một là tất cả các em đều biết đọc thông, viết thạo. Từng bước hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học. Đối với học sinh yếu, việc hướng dẫn cho các em biết các kỹ năng nói trên là một việc làm đòi hỏi sự kiên trì của cả giáo viên và học sinh. Giúp các em học tập dần dần tiến bộ hơn, giúp các em nắm bắt kịp thời bài đã học, các em không còn chán học nữa mà tự tin và hứng thú trong tiết học. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Với đối tượng học sinh yếu ở lớp Một – Lớp đầu cấp, việc dạy cho các em biết đọc thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp Một thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn. Đặc điểm của việc dạy tập đọc lớp Một chính là bước chuyển tiếp từ dạy học vần sang dạy tập đọc. Vì vậy học vần có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần quan học mở đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh được một công cụ giao tiếp quan trọng: Chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp trên.
Tiết tập đọc ở lớp Một vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của tiết tập đọc lớp Một là củng cố hệ thống âm vần đã đọc nhất là các vần khó đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết đọc diễn cảm. Đó là việc rất khó nhất là đối với đối tượng học sinh yếu phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, mà lại ở vùng nông thôn như xã Hà Yên. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”.
- 2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này chỉ ra : Các biện pháp để giúp học sinh yếu lớp Một đọc thông, đọc không sai.
- Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 ở trường Tiểu học Hà Yên – Hà Trung.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong qua trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
Là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở lí luận của đề tài, hình thành gia thuyết khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mô hình lí thuyết hay thực nghiệm ban đầu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Cũng như trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp điều tra trong giáo dục được dùng thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu của mình.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
Xử lí và phân tích số liệu hay dữ liệu nghiên cứu là một trong các bước cơ bản của một nghiên cơus, bao gồm xác định vấn đề nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lí số liệu, phân tích số liệu và báo cáo kết quả. Xcas định rõ vấn đề nghiên cứu giúp việc thu thập số liệu được nhanh chóng và chính xác hơn.Để có cơ sở phân tích số liệu tốt thì trong quá trình thu thập phải xác định trước các yêu cầu của phân tích để có thể thu thập đủ và đúng số liệu như mong muốn.
- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Rèn đọc cho học sinh yếu là việc rất quan trọng và cấp bách cho học sinh ở ngay đầu cấp tiểu học. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi coi việc phụ đạo học sinh yếu là khâu quan trọng hàng đầu.
Bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của các em. Kỹ năng đọc của học sinh lớp Một cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn … vv
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tâm lý, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi các em sẽ thích học.
- Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quan sát và nghiên cứu ở lớp Một tôi thấy hầu hết các em học sinh yếu không đọc được bài là do khả năng tiếp thu của các em chậm, không nhớ các âm hai, ba con chữ dẫn đến không ghép được tiếng, từ. Qua tìm hiểu thực tế ở lớp và ở gia đình, tôi nhận định nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do:
- Đối với học sinh.
Cùng vào lớp Một nhưng mức độ chuẩn bị tâm thế của mỗi trẻ đều khác nhau, một số trẻ đã qua môi trường mẫu giáo đã được làm quen với môi trường học tập, số khác đăc biệt với những gia đình khó khăn thì các em chưa được chuẩn bị gì, hoàn toàn xa lạ với trường lớp, với hoạt động học tập.
Một số học sinh do học trước chương trình nên cảm thấy chán nản, không hứng thú khi đến lớp. Nhưng đến lúc bạn bè bắt nhịp với mình thì các em không theo kịp vì chủ quan, ỷ lại.
Được vào lớp Một, trẻ nhận được sự trợ giúp cũng khác nhau từ phía gia đình, người thân.
Điều kiện phụ huynh gia đình bận công việc đồng áng hay đi làm trong các công ty, để con cho ông bà đi làm ăn xa nên không có thời gian dạy con mà tất cả là nhờ nhà trường.
- Đối với giáo viên.
Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy.
Khả năng thiết kế, tổ chức các trò chơi hoặc học tập còn hạn chế.
- Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu
Sĩ số lớp | Số HS được đánh giá | Các lần đánh giá | Hoàn thành | Chưa hoàn thành | ||
SL | % | SL | % | |||
32 | 32 | Lần 1 ngày …….. | 12 | 37,5 | 20 | 62,5 |
Trên đây là bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu, số em hoàn thành là 12 em, chưa hoàn thành là 20 em. Tỉ lệ học sinh hoàn thành là quá thấp, nếu tỉ lệ như vậy sẽ không đúng với yêu cầu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2.
Từ thực trạng tôi đã nêu trên, để giúp học sinh đọc tốt hơn, tôi đã đưa ra một số kinh nghiệm “Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.”
- Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những giải pháp sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên xác định được yêu cầu chung của môn học
Mục tiêu của môn Tiếng Việt đặt ra là hoàn thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe – Nói – Đọc – Viết) để học sinh tập giao tiếp trong các môi trường họat động của lứa tuổi. Ngoài ra còn hình thành và phát triển những phẩm chất như tính chính xác, tỷ mỉ, cẩn thận, chu đáo, tính kỷ luật, tiết kiệm, yêu lao động và tính sáng tạo… Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học hết lớp 1, các em phải đạt yêu cầu sau:
- Về kỹ năng đọc thành tiếng.
– Đọc thông thạo và tốc độ cần đạt là khoảng 30 tiếng/1 phút
– Biết cầm sách đọc đúng tư thế.
– Biết đọc liền từ, đọc cụm từ, đọc liền câu, ngắt, nghỉ, hỏi đúng lúc, đúng chỗ.
- Kỹ năng đọc hiểu
Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu đã đọc (Độ dài cần khoảng 10 tiếng).
Học thuộc lòng một số bài văn vần (thơ, ca dao) trong sách giáo khoa.
* Giải pháp 2: Khảo sát và phân loại đối tượng học sinh.
Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy:
Tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học tập. Nhận biết được hoàn cảnh cụ thể của từng em tôi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp sao cho các em không cảm thấy bị gò bó mà ngược lại trong từng tiết học các em cảm thấy hứng thú. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học như bộ chữ thực hành, bảng găm.
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
Sắp xếp học sinh yếu ngồi bàn đầu để tiện cho việc đi lại và theo dõi uốn nắn.
Nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng
Môn: | Tiếng việt |
Lớp: | 1 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 2175 |
Lượt tải: | 22 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Phúc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Phúc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên xác định được yêu cầu chung của môn học
* Giải pháp 2: Khảo sát và phân loại đối tượng học sinh.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững các nét cơ bản.
* Giải pháp 4: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học âm.
* Giải pháp 5: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học vần.
* Giải pháp 6: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng đọc tiếng trong phần tập đọc.
* Giải pháp 7: Sửa lỗi cho học sinh khi đọc bài:
* Giải pháp 8: Rèn đọc ở các môn học khác và ở sách báo ngoài chương trình
* Giải pháp 9: Kết hợp chặt chẽ với gia đình trong việc rèn đọc cho học sinh
yếu.
Mô tả sản phẩm
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Mục tiêu chủ yếu đối với môn Tiếng việt ở lớp Một là tất cả các em đều biết đọc thông, viết thạo. Từng bước hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học. Đối với học sinh yếu, việc hướng dẫn cho các em biết các kỹ năng nói trên là một việc làm đòi hỏi sự kiên trì của cả giáo viên và học sinh. Giúp các em học tập dần dần tiến bộ hơn, giúp các em nắm bắt kịp thời bài đã học, các em không còn chán học nữa mà tự tin và hứng thú trong tiết học. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình.
Với đối tượng học sinh yếu ở lớp Một – Lớp đầu cấp, việc dạy cho các em biết đọc thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp Một thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn. Đặc điểm của việc dạy tập đọc lớp Một chính là bước chuyển tiếp từ dạy học vần sang dạy tập đọc. Vì vậy học vần có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần quan học mở đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh được một công cụ giao tiếp quan trọng: Chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp trên.
Tiết tập đọc ở lớp Một vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của tiết tập đọc lớp Một là củng cố hệ thống âm vần đã đọc nhất là các vần khó đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài. Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết đọc diễn cảm. Đó là việc rất khó nhất là đối với đối tượng học sinh yếu phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, mà lại ở vùng nông thôn như xã Hà Yên. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này chỉ ra : Các biện pháp để giúp học sinh yếu lớp Một đọc thông, đọc không sai.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 ở trường Tiểu học Hà Yên – Hà Trung.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong qua trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
Là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở lí luận của đề tài, hình thành gia thuyết khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng những mô hình lí thuyết hay thực nghiệm ban đầu.
b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Cũng như trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp điều tra trong giáo dục được dùng thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát phương pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu của mình.
c. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
Xử lí và phân tích số liệu hay dữ liệu nghiên cứu là một trong các bước cơ bản của một nghiên cơus, bao gồm xác định vấn đề nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lí số liệu, phân tích số liệu và báo cáo kết quả. Xcas định rõ vấn đề nghiên cứu giúp việc thu thập số liệu được nhanh chóng và chính xác hơn.Để có cơ sở phân tích số liệu tốt thì trong quá trình thu thập phải xác định trước các yêu cầu của phân tích để có thể thu thập đủ và đúng số liệu như mong muốn.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Rèn đọc cho học sinh yếu là việc rất quan trọng và cấp bách cho học sinh ở ngay đầu cấp tiểu học. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi coi việc phụ đạo học sinh yếu là khâu quan trọng hàng đầu.
Bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của các em. Kỹ năng đọc của học sinh lớp Một cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn … vv
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tâm lý, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi các em sẽ thích học.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quan sát và nghiên cứu ở lớp Một tôi thấy hầu hết các em học sinh yếu không đọc được bài là do khả năng tiếp thu của các em chậm, không nhớ các âm hai, ba con chữ dẫn đến không ghép được tiếng, từ. Qua tìm hiểu thực tế ở lớp và ở gia đình, tôi nhận định nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do:
a. Đối với học sinh.
Cùng vào lớp Một nhưng mức độ chuẩn bị tâm thế của mỗi trẻ đều khác nhau, một số trẻ đã qua môi trường mẫu giáo đã được làm quen với môi trường học tập, số khác đăc biệt với những gia đình khó khăn thì các em chưa được chuẩn bị gì, hoàn toàn xa lạ với trường lớp, với hoạt động học tập.
Một số học sinh do học trước chương trình nên cảm thấy chán nản, không hứng thú khi đến lớp. Nhưng đến lúc bạn bè bắt nhịp với mình thì các em không theo kịp vì chủ quan, ỷ lại.
Được vào lớp Một, trẻ nhận được sự trợ giúp cũng khác nhau từ phía gia đình, người thân.
Điều kiện phụ huynh gia đình bận công việc đồng áng hay đi làm trong các công ty, để con cho ông bà đi làm ăn xa nên không có thời gian dạy con mà tất cả là nhờ nhà trường.
b. Đối với giáo viên.
Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy.
Khả năng thiết kế, tổ chức các trò chơi hoặc học tập còn hạn chế.
c. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu
Sĩ số lớp
Số HS được đánh giá
Các lần đánh giá
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
32
32
Lần 1 ngày ……..
12
37,5
20
62,5
Trên đây là bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu, số em hoàn thành là 12 em, chưa hoàn thành là 20 em. Tỉ lệ học sinh hoàn thành là quá thấp, nếu tỉ lệ như vậy sẽ không đúng với yêu cầu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2.
Từ thực trạng tôi đã nêu trên, để giúp học sinh đọc tốt hơn, tôi đã đưa ra một số kinh nghiệm “Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.”
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những giải pháp sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên xác định được yêu cầu chung của môn học
Mục tiêu của môn Tiếng Việt đặt ra là hoàn thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe – Nói – Đọc – Viết) để học sinh tập giao tiếp trong các môi trường họat động của lứa tuổi. Ngoài ra còn hình thành và phát triển những phẩm chất như tính chính xác, tỷ mỉ, cẩn thận, chu đáo, tính kỷ luật, tiết kiệm, yêu lao động và tính sáng tạo… Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học hết lớp 1, các em phải đạt yêu cầu sau:
a. Về kỹ năng đọc thành tiếng.
– Đọc thông thạo và tốc độ cần đạt là khoảng 30 tiếng/1 phút
– Biết cầm sách đọc đúng tư thế.
– Biết đọc liền từ, đọc cụm từ, đọc liền câu, ngắt, nghỉ, hỏi đúng lúc, đúng chỗ.
b. Kỹ năng đọc hiểu
Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu đã đọc (Độ dài cần khoảng 10 tiếng).
Học thuộc lòng một số bài văn vần (thơ, ca dao) trong sách giáo khoa.
* Giải pháp 2: Khảo sát và phân loại đối tượng học sinh.
Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy:
Tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học tập. Nhận biết được hoàn cảnh cụ thể của từng em tôi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp sao cho các em không cảm thấy bị gò bó mà ngược lại trong từng tiết học các em cảm thấy hứng thú. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học như bộ chữ thực hành, bảng găm.
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
Sắp xếp học sinh yếu ngồi bàn đầu để tiện cho việc đi lại và theo dõi uốn nắn.
Nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững các nét cơ bản.
Tôi dạy thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 102
- 1
- [product_views]
- 5
- 172
- 2
- [product_views]
- 2
- 184
- 3
- [product_views]
- 8
- 129
- 4
- [product_views]
- 0
- 151
- 5
- [product_views]
- 7
- 100
- 6
- [product_views]
- 6
- 160
- 7
- [product_views]
- 7
- 151
- 8
- [product_views]
300.000 ₫
- 4
- 178
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 5
- 193
- 10
- [product_views]