SKKN Một số giải pháp trong công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trực tuyến tại trường THPT
- Mã tài liệu: MT0042 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 570 |
Lượt tải: | 4 |
Số trang: | 52 |
Tác giả: | Trần Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Hà Huy Tập |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 52 |
Tác giả: | Trần Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Hà Huy Tập |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số giải pháp trong công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trực tuyến tại trường THPT“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2.1. Các giải pháp tác động từ bên ngoài
2.1.1.Tư vấn, phối hợp với phụ huynh về việc quản lí giờ giấc, thiết bị và sinh hoạt hàng ngày của học sinh
2.1.2. Phối hợp với GVBM và các tổ chức khác trong NT để quản lí học sinh cũng như tổ chức các hoạt động ý nghĩa nhằm tạo động lực học tập cho học sinh
2.2. Các giải pháp tác động trực tiếp đến học sinh
2.2.1. Tư vấn phương pháp học cho học sinh
2.2.2. Khai thác hiệu quả tác dụng của các phần mềm điện tử
Mô tả sản phẩm
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đã gần 2 năm kể từ ngày đại dịch Covid-19 xuất hiện trên thế giới cũng như tại Viêt Nam, Covid-19 đã gây ra cuộc khủng hoảng tồi tệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội nói chung cũng như đối với giáo dục nói riêng. Sự tác động đó đã ảnh hưởng nặng nề đến các nền giáo dục trên thế giới và ở Việt Nam. Sau khi Tổ chức y tế thế giới (WHO) công bố Covid – 19 là đại dịch toàn cầu, từ mẫu giáo đến đại học, các trường học trên toàn thế giới đã tạm thời đóng cửa. Tình trạng ấy buộc các cơ sở giáo dục phải giảng dạy bằng hình thức khác thay cho cách truyền thụ truyền thống. Nhiều nhà giáo dục cảnh báo, tình trạng này có khả năng để lại di chứng lâu dài cho xã hội. Theo một báo cáo mới của UNICEF, ít nhất một phần ba trẻ em trên thế giới, tức là khoảng 463 triệu trẻ em trên toàn cầu, không thể học từ xa khi các trường học bị đóng cửa vì Covid-19. Theo bà Henrietta Fore – Giám đốc điều hành UNICEF: “Các em không hề biết đến cái gọi là học từ xa. Số lượng lớn trẻ em bị gián đoạn việc học tập trong nhiều tháng liên tục đe dọa nền giáo dục toàn cầu và sẽ để lại hậu quả cho kinh tế và xã hội trong nhiều thập kỷ tới”.
Dạy học trực tuyến, dạy học phối hợp trực tuyến với trực tiếp là giải pháp được nhiều quốc gia và các tổ chức giáo dục lựa chọn trong thời kỳ Covid-19. Trong đó, dạy học trực tuyến là phương pháp giảng dạy khá hiệu quả mà giáo viên cần áp dụng một cách có định hướng để truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh một cách linh hoạt, giúp cho người học theo được mạch bài giảng đạt được mục tiêu của bài học và môn học… Dạy học trực tuyến đã, đang và sẽ trở thành xu hướng được tăng cường, củng cố và dần trở thành một xu thế tất yếu, nhiệm vụ chính trong các nhiệm vụ triển khai năm học để thích ứng với tình hình mới.
Tại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt, trách nhiệm, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, ngành Giáo dục và Đào tạo ở nước ta đã có nhiều đổi mới, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải thiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; thay đổi, điều chỉnh các hoạt động dạy học, tổ chức dạy học trực tuyến góp phần phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy-học, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho học sinh, tạo điều kiện để trẻ em, học sinh, học sinh được học ở mọi nơi, mọi lúc và bảo đảm công tác phòng, chống dịch, thích ứng với tình hình của dịch Covid-19; đồng thời thực hiện tốt phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng việc học” đáp ứng mục tiêu chương trình, kế hoạch công tác của năm học. Vì thế dù còn gặp vô vàn khó khăn, song với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã kết thúc được các năm học 2019-2020 và 2020-2021 với các kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, Covid -19 đã gây cho ngành giáo dục những hậu quả hết sức nặng nề. Báo cáo Quốc hội trước phiên trả lời chất vấn sáng 11/11/2021, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết: Gần hai năm qua, đại dịch Covid-19 đã làm đảo lộn và tàn phá tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó giáo dục và đào tạo là lĩnh vực chịu ảnh hưởng rất nặng nề. Kế hoạch năm học bị đứt đoạn, chương trình và nội dung giáo dục phải thay đổi theo hướng chỉ còn phần cốt lõi. Hơn 20 triệu học sinh, học sinh và gần 2 triệu nhà giáo các cấp học chưa thể tiếp tục dạy học và học theo phương thức dạy học trực tiếp. Nhiều cơ sở giáo dục và đào tạo phải đóng cửa kéo dài hoặc chuyển sang dạy học trực tuyến trong điều kiện thiếu sự chuẩn bị và bị động về năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật. Tình trạng này bị gián đoạn và kéo dài qua bốn đợt bùng phát dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm chương trình, phương pháp, kế hoạch tổ chức dạy và học, hoạt động của trường, lớp và đến sự phát triển của trẻ em, học sinh, học sinh cả nước. Trên 7 vạn học sinh không thể ra trường đúng hạn, ảnh hưởng tới việc cung cấp nguồn nhân lực. Đau xót nhất là trong đợt dịch bùng phát lần thứ tư, đã có hơn 2500 trẻ mồ côi do dịch Covid -19.
Ngày 11/8/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Thông tư ban hành quy định quản lý tổ chức dạy học trực tuyến đối với các cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên, để lấy ý kiến góp ý rộng rãi. Dự thảo được xây dựng trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước đang ngày một chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức dạy học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, nâng cao chất lượng giáo dục và hướng đến thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Giáo dục và Đào tạo.
Ngày 30/3/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố thông tư tiếp theo số 09/2021/TT-BGDDT, Quy định về quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên, theo đó điều 3: Mục đích dạy học trực tuyến đã nêu rõ
1. Hỗ trợ hoặc thay thế dạy học trực tiếp tại cơ sở giáo dục phổ thông giúp cơ sở giáo dục phổ thông nâng cao chất lượng dạy học và hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông.
2. Phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học; thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Giáo dục.
3. Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho học sinh, tạo điều kiện để học sinh được học ở mọi nơi, mọi lúc.
Như vậy tâm lý cho rằng việc dạy và học trực tuyến chỉ là giải pháp tình thế, là hình thức bổ sung trong thời gian dịch bệnh diễn ra cần có góc nhìn cởi mở và thực tế hơn, bởi không chỉ đến khi dịch bệnh diễn ra thì việc chuyển đổi số trong giáo dục mới bắt đầu được triển khai mà đây đã và đang là xu thế phát triển trong xã hội hiện đại. Dịch bệnh chỉ là bối cảnh để quá trình này buộc phải đẩy nhanh hơn nữa. Vì thế cần có sự định hướng đúng từ những chính sách của Đảng, Nhà nước trong các chính sách để việc triển khai được thuận lợi hơn và những kết quả của quá trình dạy – học trong bối cảnh mới được ghi nhận một cách chính xác và xứng đáng hơn.
Tại trường THPT Hà Huy Tập, thực hiện chỉ đạo của Sở GD&ĐT Nghệ An về việc thích ứng các điều kiện dạy học trong thời đại Covid, ngay từ học kì 2 năm học 2019-2020, nhà trường đã chuẩn bị tất cả các điều kiện tốt nhất có thể cho giáo viên và học sinh để chuyển từ hình thức dạy học trực tiếp sang hình thức dạy học trực tuyến. Từ năm học 2020 – 2021 đến năm học 2021 – 2022, học sinh THPT Hà Huy Tập đã phải trải qua tổng cộng gần 8 tháng học trực tuyến, đặc biệt năm học 2021 – 2022, khối 10 của trường mới vào nhập học đã phải học trực tuyến. Nhập học, khai giảng đều online, thầy cô nhìn học sinh qua màn hình máy tính. Bạn bè cũng chỉ tương tác với nhau qua phòng zoom, google meet…điều đó đã gây ra không ít khó khăn cho giáo viên trong công tác giáo dục, đặc biệt là công tác chủ nhiệm. Như vậy đại dịch Covid – 19 không chỉ làm thay đổi hình thức dạy dọc theo phương pháp truyền thống, mà kể cả công tác tổ chức trường lớp, công tác quản lý trường lớp của Ban giám hiệu, cán bộ tổ chuyên môn và đặc biệt là GVCN cũng phải chuyển sang thích ứng với hình thức trực tuyến. Một bài toán đặt ra, đó là chúng ta không thể bê nguyên phương pháp quản lý, cách thức giáo dục theo hình thức trực tiếp áp dung cho giáo dục trực tuyến. Làm thế nào để học sinh quen dần với hình thức giáo dục trực tuyến mà chất lượng giáo dục của lớp học vẫn đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với học sinh là một vấn đề mà mỗi GVCN lớp luôn trăn trở trong bối cảnh hiện nay. Từ thực tiễn kết quả giáo dục học sinh trong hai năm qua, tôi xin đề xuất đề tài: Một số giải pháp trong công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trực tuyến tại trường THPT Hà Huy Tập.
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Học trực tuyến khi có dịch virus Corona là giải pháp được nhiều trường lựa chọn khi học sinh không đến lớp nhằm đảm bảo phần nào tiến độ học tập. Tuy nhiên, trong thời đại chuyển đổi số trong cuộc cách mạng 4.0, xu hướng học trực tuyến (online) không chỉ là biện pháp tình thế trong thời dịch bệnh mà sẽ là xu hướng mà chúng ta đang tiến tới. Vì vậy giáo viên và học sinh cần phải làm quen với phương pháp dạy học này.
Đề tài nghiên cứu được bản thân trăn trở, đúc rút kinh nghiệm năm học 2019 – 2020 khi dịch bệnh bùng phát và ứng dụng trực tiếp tại 02 lớp chủ nhiệm 11A3 – Năm học 2020 – 2021, 10D5 – Năm học 2021 – 2022 ở trường THPT Hà Huy Tập (như trường hợp áp dụng điển hình). Đồng thời đề tài cũng được áp dụng thử nghiệm ở các trường THPT Nghi Lộc 5 và trường THPT Nghi Lộc 3 – Năm học 2021 – 2022.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng linh hoạt các phương pháp sau: Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu, thông tin;phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp khảo sát thực tế trước và sau khi tác động; phương pháp so sánh trước và sau khi tác động; phương pháp thống kê, xử lí số liệu, tranh ảnh,…
IV. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm:
– Cơ sở lí luận
– Cơ sở thực tiễn
– Một số giải pháp
– Kết quả đạt được
B. NỘI DUNG
I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Các khái niệm về công tác chủ nhiệm lớp học
1.1. Công tác chủ nhiệm lớp học
Trong trường học, lớp học là đơn vị cơ bản được thành lập để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh. Để quản lí, giáo dục học sinh trong lớp, nhà trường phân công một trong những giáo viên đang giảng dạy có năng lực chuyên môn tốt, có kinh nghiệm làm công tác quản lí, giáo dục học sinh, có tinh thần trách nhiệm cao và lòng nhiệt tình trong công tác, có uy tín với học sinh và đồng nghiệp làm chủ nhiệm lớp.
1.2. Vị trí, vai trò của GVCN lớp
GVCN (GVCN) là nhà quản lí, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với học sinh và tập thể học sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm tuân thủ và tự giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này.
GVCN là người thay mặt hiệu trưởng quản lí lớp học. Vai trò quản lí đó được thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục; tổ chức các hoạt động giáo dục; đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng của HS trong lớp. GVCN chịu trách nhiệm về kết quả học tập và rèn luyện của HS trong lớp trước hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS. Do đó, có thể nói trách nhiệm của GVCN lớp rất nặng nề. Đồng thời GVCN là linh hồn của tập thể lớp, là người tập hợp HS thành một khối đoàn kết.
GVCN cũng là người cố vấn đắc lực của Đoàn Thanh niên trong việc tổ chức sinh hoạt tập thể. Ở đây, GVCN làm cố vấn cho các tổ chức đoàn thể việc lập kế hoạch công tác, thành lập các Ban chấp hành Chi đoàn, tổ chức các mặt hoạt động, sinh hoạt các đoàn thể và phối hợp với các hoạt động của tập thể lớp nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục chung.
GVCN giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng giáo dục: Gia đình, nhà trường, xã hội, trong đó nhà trường là lực lượng Giáo dục có tính chất chuyên nghiệp. GVCN là người giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng giáo dục, do vậy, GVCN phải là người đứng ra điều phối và kết hợp cùng các lực lượng giáo dục để tổ chức các hoạt động giáo dục một cách có hiệu quả nhất.
Năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín và kinh nghiệm công tác của GVCN là điều kiện quan trọng nhất cho việc tổ chức, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục học sinh của lớp.
1.3. Nhiệm vụ của GVCN lớp
Theo khoản 2, điều 31 Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học được ban hành theo Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT, ngày 28/3/2011 của Bộ GD&ĐT (Điều lệ trường trung học) thì GVCN ngoài các nhiệm vụ của giáo viên còn có những nhiệm vụ sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh;
b) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
c) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các GVBM, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường;
d) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh;
e) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
1.4. Quyền của GVCN lớp
Theo khoản 2, điều 32 của Điều lệ trường trung học thì GVCN lớp ngoài các quyền của giáo viên còn có các quyền sau đây
a) Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình;
b) Được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỷ luật khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình;
c) Được dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm;
d) Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày liên tục;
e) Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo quy định khi làm chủ nhiệm lớp.
2. Học sinh trung học phổ thông
2.1. Vị trí, ý nghĩa của học sinh trung học phổ thông (THPT)
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên
+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên học sinh)
Vậy học sinh THPT thuộc giai đầu của tuổi thanh niên. Đây là lứa tuổi thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Vấn đề này khó khăn và phức tạp vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa tuổi.
Trong giao tiếp, thanh niên học sinh có khuynh hướng coi trọng quan hệ với những người cùng lứa tuổi hơn quan hệ với người lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn. Điều cốt lõi để giải thích hiện tượng này là sự tương đồng về suy nghĩ, cảm xúc và hành động.
Người lớn có thể được các em yêu quý và tin tưởng nếu có được sự tương đồng này.
a. Trong gia đình
Nhìn chung, ở độ tuổi này, vai trò làm người lớn của các em trong gia đình được tăng cường, vì vậy quyền lợi và trách nhiệm của người lớn trong các em cũng được tăng theo. Cha mẹ và những người lớn trong gia đình có thể bắt đầu trao đổi với các em những vấn đề quan trọng của gia đình như: vai trò và nhiệm vụ của các thành viên trong gia đình, những giá trị mà gia đình xây dựng, quan điểm sống và cách xử thế của các thành viên, thị hiếu thẩm mỹ, tương lai của gia đình, các khoản thu chi,… Thậm chí có những em đã là một thành viên quan trọng trong gia đình như: thay thế cha hoặc mẹ trong những gia đình cha mẹ không sống chung, là người tham gia lao động và góp phần tạo ra nguồn thu nhập cho gia đình, chăm sóc người già và dạy dỗ trẻ em,… Đây là những cơ hội tốt để thanh niên học sinh bày tỏ suy nghĩ, thái độ, thể hiện hiểu biết và kĩ năng của mình, từ đó hình thành và phát triển tâm lý. Mặt khác, thanh niên học sinh vẫn chưa được tự quyết định mà còn chịu sự tác động của người lớn về nhiều nội dung cuộc sống của các em như: hàng ngày các em nên làm gì và không nên làm gì, nên hay không nên chơi với ai, chọn bạn nào để kết thân, lúc nào có thể làm gì, cách thức thực hiện công việc của bản thân, chọn nghề nào, chọn trường nào,, sử dụng tiền như thế nào,…
Trong quá trình giao tiếp với người thân trong gia đình, thanh niên học sinh vẫn chưa có sự độc lập trong các quyết định của mình. Người lớn có thể cư xử với các em theo hai hướng: một hướng muốn phát huy vai trò người lớn của các em, hướng khác lại mong đợi các em chấp hành những đề nghị của mình, từ đó, làm cho thanh niên học sinh có vị trí không xác định trong các quan hệ gia đình, có lúc các em được làm người lớn, có lúc các em không được làm người lớn.
c. Trong nhà trường
Giao tiếp với các thầy cô giáo cũng là một trong những yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển tâm lý của thanh niên học sinh. Hầu hết thanh niên Việt Nam trong độ tuổi từ 16 – 18 tham gia học ở các trường trung học phổ thông, số còn lại học ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường năng khiếu, các trường có liên kết với các trường nước ngoài. Tính chất của các mối quan hệ giao tiếp giữa các em và thầy cô giáo có ảnh hưởng rất quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển tâm lý, đặc biệt là sự phát triển về trí tuệ và nhân cách.
Thầy cô giáo có cái nhìn khác về các em so với khi các em còn học ở trường trung học cơ sở. Vai trò chủ động, sáng tạo trong học tập của các em được giáo viên nhận thức và thực hiện. Đây là một cơ hội thuận lợi cho việc phát triển tính người lớn trong các em. Các em có thể tự quản lý lớp và quản lý thời khóa biểu học tập, sinh hoạt hàng ngày của mình; tự chuẩn bị các hoạt động học tập của bản thân như: chuẩn bị bài mới trước khi đi học, chuẩn bị các bài báo cáo trước lớp, tham gia các hoạt động nhóm trong học tập, tìm kiếm tài liệu học tập bằng nhiều nguồn khác nhau; thiết kế các hoạt động ngoài giờ học chính khóa, các hoạt động xã hội, các hoạt động hướng nghiệp; thảo luận và góp ý với giáo viên về các khía cạnh của quá trình học tập như: nội dung chương trình, phương pháp và hình thức học tập, các điều kiện vật chất và thiết bị phục vụ cho việc học, đánh giá việc dạy và học và những vấn đề khác liên quan đến học tập với tư cách là học sinh. Đây là những điều kiện thuận lợi để thanh niên học sinh thể hiện, rèn luyện và trưởng thành về tâm lý.
Mặt khác, thanh niên học sinh vẫn gặp khó khăn trong nhiều vấn đề của cuộc sống học đường như: phương pháp học tập, cách cư xử và giao tiếp, chấp hành kỷ luật của trường học, hiểu đúng bản thân, chọn bạn, chọn nghề, quan niệm về thành công và hạnh phúc,…
Những thầy cô am hiểu tâm lý thanh niên học sinh thường nhận thức rất rõ vị trí và vai trò của mình trong quá trinh giao tiếp với các em, đó là vị trí người đi trước và vai trò người hướng dẫn. Bên cạnh đó, có những thầy cô giáo cho rằng họ là người đi trước và luôn luôn đúng, thanh niên học sinh cần chấp hành tuân theo ý muốn chủ quan của mình hoặc cho rằng thanh niên học sinh đã trưởng thành, họ có quyền tự do riêng, không nên can thiệp vào sự tự do của các em đều không những không giúp ích mà còn gây hại cho quá trình phát triển tâm lý của thanh niên học sinh.
Nhận thức và hành động của thầy cô cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến thái độ đổi với việc học tập của thanh niên học sinh. Thanh niên học sinh nhận thức được vai trò của học tập đối với tương lai của mình nhưng các kỹ năng học tập chưa được thể hiện rõ. Nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ và giáo viên là chỉ ra và thuyết phục các em nhận thức được học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất trong lứa tuổi các em và học tập là công việc suốt đời bởi vì việc học ở trường trung học phổ thông đặt nền tảng cho việc học nghề của mỗi người và nếu không có tri thức thì con người không thể tồn tại và phát triển trong xã hội hiện đại. Bên cạnh đó, người lớn mà đặc biệt là giáo viên cần giúp các em rèn luyện các kỹ năng học tập để có thể thích nghi với việc học ở trường và chuẩn bị cho việc học ở lứa tuổi tiếp theo.
d. Ngoài xã hội
Các hình thức hoạt động của xã hội dành cho lứa tuổi thanh niên học sinh rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, sự giao tiếp của thanh niên mở rộng rất nhiều về đối tượng giao tiếp, thời gian và không gian giao tiếp. Các em có nhiều cơ hội hơn thiếu niên học sinh trong quá trình hòa nhập vào cuộc sống muôn màu muôn vẻ của đời sống xã hội. Điều này ảnh hưởng mang tính hai mặt đối với sự phát triển tâm lý của thanh niên học sinh. Ảnh hưởng có lợi cho các em ở chỗ: các em được giao tiếp với những thành phần xã hội, hoặc những người bạn tốt, những môi trường xã hội – văn hóa tốt. Ngược lại, những thành phần xã hội chưa tốt mà các em giao tiếp, những môi trường xã hội thiếu văn hóa mà các em sống trong nó đều là những mối đe dọa cho sự trưởng thành về nhân cách của các em.
Xã hội nhìn nhận về nghĩa vụ của các em khác với lứa tuổi thiếu niên học sinh. Vào cuối lứa tuổi, các em phải thực hiện một số nghĩa vụ công dân đối với xã hội: nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ quân sự,…Việc xã hội công nhận vai trò người lớn của các em và đòi hỏi các em phải thực hiện nghĩa vụ của một công dân tạo ra cho các em một động lực để trưởng thành. Đó là sự nỗ lực học tập và rèn luyện bản thân về mọi mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, óc thẩm mỹ và kỹ năng làm việc.
2.2 Một số vấn đề giáo dục đối với học sinh THPT
Học sinh THPT được sinh ra trong một môi trường xã hội có nhiều thuận lợi, nhưng ở các em cũng có những ưu điểm và nhược điểm mà trong công tác giáo dục cần lưu ý:
– Ở một số thanh niên tình cảm cách mạng và ý chí phấn đấu còn yếu, trình độ giác ngộ về xã hội còn thấp. Các em có thái độ coi thường lao động chân tay, thích sống cuộc sống xa hoa lãng phí, đua đòi, ăn chơi…
– Thanh niên là lứa tuổi mộng mơ, khao khát sáng tạo, thích cái mới lạ, chuộng cái đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bề ngoài làm lung lay ý chí, có mới nới cũ…
– Thanh niên rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, rất lạc quan yêu đời nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại.
– Thanh niên là tuổi đang phát triển về tài năng, tiếp thu cái mới nhanh, rất thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan, nông nổi, kiêu ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao trình độ. Các em thích hướng đến tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ.
– Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là thời kì có sự biến đổi lớn về chất trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Do đó, giáo viên chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong hoạt động sư phạm.
Như vậy, GVCN có nhiệm vụ rất lớn, là người thay mặt nhà trường quản lí trực tiếp quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Họ vừa là nhà giáo dục, người quản lí, người tổ chức, người tư vấn và nuôi dưỡng các ước mơ, khát vọng của tập thể cũng như từng cá nhân học sinh. Họ là người chịu trách nhiệm đối với kết quả giáo dục và học tập của học sinh. Có thể nói người GVCN có ảnh hưởng rất lớn đến học sinh, họ vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường – cha mẹ – cộng đồng – các giáo viên khác trong trường với học sinh. Do vậy, vai trò của GVCN ở trường THPT rất quan trọng. Vậy nhưng, trong bối cảnh của nạn dịch covid như hiện nay, người GVCN làm thế nào để thực hiện tốt các nhiệm vụ của họ khi mà họ không được trực tiếp gặp mặt học sinh, phụ huynh của mình? Xuất phát từ tình hình đó, đòi hỏi mỗi người GVCN phải có cách thức tổ chức lớp và đưa ra những biện pháp quản lí, giáo dục hợp lí, có hiệu quả để thúc đẩy cá nhân học sinh và tập thể lớp đi lên.
3. Giáo dục trực tuyến.
– Giáo dục trực tuyến là khái niệm được nhiều người đồng nhất với khái niệm dạy học trực tuyến. Theo quan điểm cá nhân tôi trong khái niệm giáo dục trực tuyến có bao hàm khái niệm dạy học trực tuyến và công tác tổ chức các mô hình hoạt động nhằm quản lí, định hướng và giúp đỡ cho sự phát triển toàn diện của học sinh. Tuy nhiên khi nghiên cứu khái niệm, tôi xin trích dẫn theo cách gọi của Bộ GD & ĐT về khái niệm như sau:
3.1. Khái niệm dạy học trực tuyến
Theo thông tư số 09/2021/TT-BGDDT, ngày 30/3/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên khái niệm dạy học trực tuyến được hiểu là:
1. Hệ thống dạy học trực tuyến là hệ thống phần mềm dạy học trực tuyến và hạ tầng công nghệ thông tin (sau đây gọi chung là hạ tầng kỹ thuật dạy học trực tuyến) cho phép quản lý và tổ chức dạy học thông qua môi trường Internet, bao gồm: phần mềm tổ chức dạy học trực tuyến trực tiếp; hệ thống quản lý học tập trực tuyến; hệ thống quản lý nội dung học tập trực tuyến.
2. Dạy học trực tuyến là hoạt động dạy học được tổ chức thực hiện trên hệ thống dạy học trực tuyến.
3. Dạy học trực tuyến hỗ trợ dạy học trực tiếp tại cơ sở giáo dục phổ thông là hình thức dạy học trực tuyến thực hiện một phần nội dung bài học hoặc chủ đề trong chương trình giáo dục phổ thông để hỗ trợ dạy học trực tiếp bài học hoặc chủ đề đó tại cơ sở giáo dục phổ thông.
4. Dạy học trực tuyến thay thế dạy học trực tiếp tại cơ sở giáo dục phổ thông là hình thức dạy học trực tuyến thực hiện toàn bộ nội dung bài học hoặc chủ đề trong chương trình giáo dục phổ thông để thay thế dạy học trực tiếp bài học hoặc chủ đề đó tại cơ sở giáo dục phổ thông.
Như vậy “Dạy học trực tuyến là hình thức giáo dục online, giúp chúng ta có thể tiếp nhận thông tin dễ dàng, với các phương tiện như: điện thoại, máy tính hoặc máy tính bảng có kết nối Internet. Học sinh có thể học tập tại nhà hay bất cứ đâu mà không cần phải tới trường học” (Theo ngocthiensup.com).
Cũng tương tự,vnpt.com.vn đã định nghĩa một cách khá cụ thể về dạy học trực tuyến. theo đó họ cho rằng dạy học trực tuyến (E-learning) là hình thức giảng dạy và học tập ở các lớp học trên Internet. Người dạy và người học sẽ sử dụng phần mềm nền tảng học trực tuyến, ứng dụng truyền âm thanh, hình ảnh và các thiết bị thông minh (laptop, smartphone, máy tính bảng,…).
Các bài giảng, tài liệu (dưới dạng văn bản, hình ảnh, video…) được đưa lên các nền tảng và người dùng có thể dễ dàng truy cập và học mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó còn có các khóa học cùng thời gian thực có sự tham gia và tương tác giữa giáo viên và học viên.
Trong dạy học trực tuyến có 2 khái niệm mà người dùng hay nhầm lẫn đó là: công cụ dạy học online và nền tảng giáo dục trực tuyến.
– Công cụ dạy học online: Đây là các phương tiện giúp người dạy và người học cùng tham gia vào cùng 1 thời điểm và có thể tương tác với nhau. Một số công cụ hỗ trợ học online thông dụng là: Zoom, Skype, Hangouts, Google Meet,…
– Nền tảng E-Learning: Đây là phần mềm học trực tuyến cho phép tổ chức các buổi học trong thời gian thực và các khóa học trực tuyến – nơi người học có thể truy cập bất cứ thời gian nào, sử dụng tài liệu được tải lên hệ thống để tự học.
3.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học trực tuyến
Phương pháp dạy học trực tuyến nổi bật với các đặc điểm sau:
– Giảng dạy và học tập thông qua các phần mềm công nghệ thông tin
– Có thể kết hợp hình thức nghe – nhìn và tương tác giữa người dạy và người học
– Có học, chấm điểm, thi và cấp chứng chỉ
– Người dạy có thể tạo các khóa học và tải các tài liệu (video, văn bản) lên các nền tảng dạy học trực tuyến. Họ có thể cung cấp bài giảng miễn phí hoặc trả phí cho người học
– Người học có thể tham gia các khóa học bất cứ lúc nào họ muốn.
– Khi tham gia học trực tuyến, người học có thể xem lại bài giảng nhiều lần
3. 3 Vì sao dạy học trực tuyến là xu hướng hiện nay?
Dễ dàng nhận thấy dạy học trực tuyến có nhiều ưu điểm hơn nhược điểm. Hơn nữa, dạy học trực tuyến phù hợp với tình hình thực tế hiện nay và đang trở thành xu hướng bởi:
– Tăng tính chủ động cho người học: Dạy học trực tuyến giúp người học chủ động hơn trong việc lựa chọn môn học, hình thức học, thời gian học tập, địa điểm học
– Đa dạng các chương trình đào tạo: Bên cạnh chương trình đào tạo bắt buộc trong trường học, người học có thể lựa chọn được nhiều môn học khác theo sở thích hoặc để rèn luyện thêm kỹ năng.
– Tiết kiệm chi phí và thời gian: Các cơ sở đào tạo tiết kiệm được chi phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuê giáo viên… Các khóa học trực tuyến có chi phí không lớn nên phù hợp với cả những người học không dư dả về tài chính.
– Tăng kết nối với nhiều học viên và giáo viên trên thế giới: Ví dụ như trong nền tảng học Coursera có phần thảo luận. Các thành viên trong cùng 1 khóa học có thể đưa ra các vấn đề và cùng thảo luận. Điều này giúp người dạy và người học từ nhiều quốc gia có thể tương tác với nhau.
– Trong hoàn cảnh đại dịch như hiện nay, quyết tâm cho năm học 2021-2022 và xa hơn của tất cả chúng ta, không riêng gì ngành Giáo dục, là không để một trẻ
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]