SKKN Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh lớp 7 qua hoạt động tự học ở nhà theo bộ sách Kết nối tri thức
- Mã tài liệu: MT7042 Copy
Môn: | Ngữ Văn |
Lớp: | 7 |
Bộ sách: | Kết nối tri thức |
Lượt xem: | 648 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 37 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Thành Hưng |
Năm viết: | 2022-2023 |
Số trang: | 37 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Thành Hưng |
Năm viết: | 2022-2023 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh lớp 7 qua hoạt động tự học ở nhà theo bộ sách Kết nối tri thức” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2.1. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu, lòng đam mê đối với môn học
2.2. Tăng cường giáo dục sự tự giác, tích cực học tập và ý chí tự học cho học sinh
2.3. Hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch tự học ở nhà và thực hiện kế hoạch vạch ra
2.4. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà bằng hệ thống câu hỏi, bài tập (đề cương)
2.5. Phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng tự học qua việc ở nhà
2.6. Kịp thời kiểm tra, đánh giá hoạt động học bài, làm bài tập và chuẩn bị ở nhà của học sinh
Mô tả sản phẩm
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lí luận
Trong báo cáo của UNESCO [4,66,67,83]: “Học tập – một kho báu tiềm ẩn” đã xác định các trụ cột của giáo dục như sau: “Học để hiểu, học để làm, học để hợp tác, cùng chung sống và học để làm người”, hướng tới xây dựng một xã hội học tập. Muốn thực hiện được điều này, trong dạy học hiện nay, một trong những mục tiêu quan trọng là phải hình thành phương pháp tự học ở người học. Học sinh không chỉ học tri thức của mà còn học cả cách tìm ra tri thức và những kỹ năng cần thiết để có thể tự học tập một cách độc lập và chủ động. Như vậy, kiến thức chưa phải là đích cuối cùng mà thông qua kiến thức học thúc đẩy được động cơ, hình thành được phương pháp, kỹ năng học.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng sức mạnh nội lực – tự học của con người. Nghị quyết Trung ương II khóa VIII (12/1996) đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học; từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tập trung nâng cao chất lượng, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh nhiên…”. Muốn thực hiện được điều này, trong dạy học hiện nay, một trong những mục tiêu quan trọng là phải hình thành phương pháp tự học ở người học. Học sinh không chỉ học tri thức của mà còn học cả cách tìm ra tri thức và những kỹ năng cần thiết để có thể tự học tập một cách tích cực, chủ động và độc lập. Như vậy, có thể nói tự học là một trong những kĩ năng quan trọng của giáo dục, là năng lực cần có của mỗi học sinh. Đặc biệt, đối với chương trình phổ thông mới thì việc tự học là một trong năng lực quan trọng và cần thiết đối với học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Tuy nhiên, đối với học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng, khả năng tự học còn chưa tốt, các em chưa có ý thức, kĩ năng, phương pháp cũng như kinh nghiệm. Điều đó dẫn đến hoạt động tự học của học sinh hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Trong hoạt động dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn cấp THCS nói riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét, thụ động. Khả năng tự học – yếu tố nội lực ở học sinh vẫn ở dưới dạng tiềm năng. Việc rèn phương pháp tự học cho học sinh trong môn Ngữ văn còn gặp không ít khó khăn. Thực tế hiện nay cho thấy, số học sinh yêu thích môn Ngữ văn ngày càng ít đi, một số ít bộ phận học sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy được niềm đam mê học Văn ở các em.
Trong hai năm học vừa qua, do tình hình đại dịch Covid diễn biến phức tạp nên hoạt động dạy học đã bị ảnh hưởng rất lớn. Thay vì dạy học trực tiếp như trước, đã có nhiều thời điểm trong năm học chúng ta phải chuyển sang hình thức dạy học trực tuyến. Trong bối cảnh dạy học trực tuyến, việc tự học lại càng trở nên cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần Công văn 4040/BGDĐT – GDTrH ngày 16/9/2021, hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, THPT năm học 2021 – 2022 ứng phó với dịch Covid – 19 thì sự giảm tải đã được thể hiện rất rõ ở tất cả các môn học. Trong đó, bộ môn Ngữ văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống có rất nhiều các đơn vị bài học đã được chuyển thành hình thức tự đọc, tự học, tự làm nên càng làm cho vai trò của hoạt động tự học trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Làm thế nào để học sinh THCS có thói quen tự học? Đây là một bài toán mà các giáo viên cần đặc biệt quan tâm và cũng là vấn đề mà bản thân tôi vô cùng trăn trở, khi giáo viên và học sinh chỉ có thể tương tác với nhau qua màn hình nhỏ. Nhằm đáp ứng được những đòi hỏi đó và góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập cho học sinh hiện nay, tôi đã thực hiện đề tài: “Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh lớp 7 qua hoạt động tự học ở nhà theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống” với mong muốn góp một số ý kiến nhỏ của mình trong việc rèn kỹ năng tự học, phát triển năng lực học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy học.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những nội dung lí luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu
1. Khái niệm tự học
Tự học là hoạt động nhận thức có tính độc lập cao do cá nhân tự tri giác, tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức, các kinh nghiệm thông qua các hình thức, thao tác trí tuệ khác nhau nhằm hoàn thiện, nâng cao trình độ, năng lực người học, biến những tri thức của nhân loại thành tri thức của bản thân. Tự học có thể thông qua các phương pháp và hình thức khác nhau như: Tự học qua sách vở, giáo trình; tự học qua mạng xã hội, qua tạp chí sách báo.
2. Những lợi ích của việc tự học
Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2019 quy định rõ: “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình tivi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân. Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Qua tự học, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành, giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng, củng cố và nâng cao kiến thức đã học. Vì vậy, chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình. Tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập, mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể. Tự học sẽ giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, tích cực, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Người biết tự học là người có ý thức cao, chủ động trong cuộc sống của chính mình, những người này sẽ đi nhanh đến thành công hơn. Tự học giúp con người chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích và có thể tự rút ra được những bài học cho riêng mình.
II. Thực trạng về vấn đề kĩ năng tự học của học sinh
1. Thực trạng
Trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh là vô cùng cần thiết, quan trọng.
Trong hoạt động dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn cấp THCS nói riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét, thụ động. Khả năng tự học – yếu tố nội lực ở học sinh vẫn ở dưới dạng tiềm năng. Việc rèn phương pháp tự học cho học sinh trong môn Ngữ văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống còn gặp không ít khó khăn. Thực tế hiện nay cho thấy, số học sinh yêu thích môn Ngữ văn ngày càng ít đi, một số ít bộ phận học sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy được niềm đam mê học Văn ở các em. Mặt khác, Ngữ Văn là môn học có khối lượng kiến thức khá rộng, mỗi tuần ở các khối 6, 7, 8 chiếm số lượng khoảng 4 tiết/tuần riêng khối 9 có khoảng 5 tiết/tuần. Với số lượng trên ta thấy môn Ngữ Văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống chiếm số lượng tiết nhiều nhất trong tất cả các môn học. Trong khi đó, ở các tiết dạy trên lớp, giáo viên tuy có dành thời gian rèn kỹ năng tự học cho học sinh nhưng chưa nhiều, chủ yếu tập trung hướng dẫn học sinh tìm kiếm, khai thác kiến thức mới, giải quyết một số bài tập ở sách giáo khoa. Vì vậy, đòi hỏi học sinh phải có phương pháp tự học ở nhà thật tốt mới có thể nắm kiến thức trên lớp, giáo viên cần chú trọng rèn kỹ năng tự học cho học sinh, đặc biệt là tự học ở nhà.
Cùng với đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa và trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, thì việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn bước đầu cũng đã có những thành công nhất định. Nhiều thầy cô giáo dạy Ngữ văn cũng đã rất nhiệt tình, tích cực tìm tòi nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc học Ngữ văn cấp THCS. Thực trạng lên lớp theo kiểu thầy giảng, trò nghe, thầy đọc trò chép đã giảm đáng kể, không khí giờ Ngữ văn đã có sự biến đổi tích cực. Theo đó, khâu hướng dẫn học sinh học và chuẩn bị bài ở nhà cũng được các thầy cô quan tâm hơn. Vì thế, việc rèn luyện kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS được nâng lên đáng kể. Qua thực tế giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng ở tiết học nào học sinh học bài, làm bài ở nhà tốt dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên thì tiết học đó học sinh hoạt động sôi nổi, tích cực, chủ động hơn, hiệu quả giờ học cao hơn. Rõ ràng tiết học đó phát huy được khả năng tự học của học sinh.
Bên cạnh những điểm đã làm được như đã nêu trên, việc rèn luyện kỹ năng tự học ở nhà môn Ngữ văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống cho học sinh vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Để tiến hành thực hiện đề tài này, tôi tiến hành khảo sát thực tế học, làm bài tập ở nhà của học sinh một số lớp ở trường tôi qua hình thức trắc nghiệm và qua các bài tập, bài kiểm tra. Sau đây là các số liệu khảo sát một số lớp khối 7 năm học 2020 – 2021:
Bảng 1: Học bài cũ
Lớp | Không học bài | Học chiếu lệ | Học thuộc bài | Học hiểu bài |
7A1 | 13/50
(26%) |
15/50
(30%) |
12/50 (24%) | 10/50 (20%) |
7A2 | 21/51 (41,1%) | 18/51 (35,3%) | 7/51 (13,7%) | 5/51 (9,8%) |
7A3 | 14/45 (31,1%) | 16/45 (35,5%) | 8/45 (17,8%) | 7/45 (15,6%) |
Bảng 2: Soạn bài
Lớp | Không soạn bài | Soạn chiếu lệ | Soạn chu đáo | Soạn nâng cao |
7A1 | 15/50
(30%) |
18/50
(36 %) |
12/50
(24%) |
5/50
(10%) |
7A2 | 25/51
(49%) |
17/51
(33,3%) |
9/51
(17,6%) |
0/51
(0%) |
7A3 | 9/45
(20%) |
15/45
(33,3%) |
16/45
(35,5%) |
5/45
(11,2%) |
Bảng 3: Làm bài tập
Lớp | Không làm bài | Làm chiếu lệ | Làm hết | Làm hết và làm thêm ở sách khác |
7A1 | 8/50
(16%) |
19/50
(38%) |
15/50
(30%) |
8/50
(16%) |
7A2 | 23/51
(46%) |
17/51
(33,3%) |
11/51 (21,5%) | 0/51
(0%) |
7A3 | 6/45
(13,3%) |
10/45 (22,2%) | 24/45 (53,3%) | 5/45
(11,2%) |
Qua kết quả khảo sát, tôi thấy thực trạng học bài cũ, soạn bài, làm bài tập đối với bộ môn Ngữ Văn ở các lớp học sinh của trường tôi còn thấp và không đồng đều giữa các lớp. Đặc biệt, số học sinh không làm và làm chiếu lệ vẫn chiếm tỉ lệ cao. Thực trạng đó sẽ làm cho học sinh có thói quen xấu như: căn bệnh ỷ lại, thiếu suy nghĩ, thiếu chí tiến thủ, thiếu tự giác, thiếu tích cực trong việc chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức, phương pháp để làm bài tập. Với yêu cầu đổi mới giáo dục, thực trạng đó chưa đáp ứng được chất lượng học tập của học sinh, mục đích giáo dục của ngành. Để khắc phục thực trạng trên, việc đặt vấn đề rèn luyện kĩ năng tự học và làm bài tập ở nhà trước khi đến lớp và sau bài học, tiết học là một vấn đề có tính cấp bách đối với học sinh THCS hiện nay.
2. Nguyên nhân của thực trạng
– Đối với giáo viên
Giáo viên chưa tạo cho học sinh niềm tin, tình yêu, sự đam mê đối với văn học. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới, phù hợp kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh.
Giáo viên chưa thực sự chú trọng đến tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng tự học Ngữ văn THCS thông qua hoạt động tự học và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Số tiết học sinh học bài và chuẩn bị bài chu đáo dưới sự hướng dẫn tích cực, cẩn thận của giáo viên còn ít, hầu như chỉ tập trung ở những tiết thao giảng, thực tập. Tình trạng giáo viên hướng dẫn học sinh học ở nhà qua loa, chiếu lệ vẫn còn xảy ra nhiều, kiểu như “Về nhà các em nhớ học bài cũ và soạn bài mới chuẩn bị cho tiết sau”, hay “Các em làm bài tập còn lại ở sách giáo khoa và đọc trước bài mới”, … Làm như vậy thì giáo viên đỡ vất vả, mất ít công sức nhưng chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh, chưa thể hiện được sự ràng buộc với học sinh trong việc giao nhiệm vụ học tập về nhà, đặc biệt chưa cho học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc học ở nhà, và đồng thời chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh tự học. Vì thế, việc hình thành và rèn luyện kỹ năng tự học qua hoạt động học ở nhà còn chưa thường xuyên và đồng đều ở học sinh, hiệu quả học tập môn Ngữ Văn chưa cao.
Một số giáo viên còn quá cứng nhắc trong việc hướng dẫn học sinh tự học, chuẩn bị bài ở nhà như: yêu cầu học sinh phải giải toàn bộ bài tập, trả lời hết tất cả các câu hỏi có ở sách giáo khoa không kể khó hay dễ, không quan tâm đến đối tượng học sinh. Giáo viên không định hướng trọng tâm kiến thức, kỹ năng cho học sinh.
Ngoài ra, giáo viên tuy có hướng dẫn học sinh học ở nhà nhưng lại lỏng lẻo ở khâu kiểm tra: giáo viên chủ yếu kiểm tra số lượng bài tập học sinh hoàn thành mà chưa chú trọng đến chất lượng làm bài của học sinh tạo cơ hội cho các em chép bài theo tài liệu, chép lại bài của bạn để đối phó.
Giáo viên chưa có biện pháp để động viên kích thích sự hứng thú học tập hoặc chưa có biện pháp nhắc nhở, răn đe kịp thời, chưa tạo được động lực học tập cho học sinh nên chưa phát huy được tính tích cực, tự giác, tự học của học sinh trong quá trình học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà.
Trong các tiết dạy học, thời gian cho dành cho hoạt động hướng dẫn tự học ở nhà và kiểm tra hoạt động này không nhiều. Vì vậy, nhiều giáo viên còn xem nhẹ khâu hướng dẫn học sinh tự học ở nhà và ngay cả khâu kiểm tra cũng còn qua loa, chiếu lệ, mang tính hình thức. Điều này dẫn đến việc rèn kỹ năng tự học kém hiệu quả.
– Đối với học sinh
Nhiều em học sinh còn chưa xác định được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề tự học. Chưa xác định chính xác động cơ học tập vì thế chưa nỗ lực, cố gắng hết mình trong quá trình tự học ở nhà.
Một bộ phận không nhỏ học sinh lười suy nghĩ, học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, không rèn từ, rèn câu, rèn viết mà chỉ học thuộc lòng văn mẫu, bài mẫu và sao chép một cách rập khuôn máy móc theo một bài mẫu hoặc dàn ý có sẵn với mục đích là đối phó. Khả năng viết bài, tạo lập văn bản giống như việc làm bài của các môn khoa học Lịch sử, Địa lí.
Một số nữa thì ham chơi, lười học, cha mẹ buông lỏng không kèm cặp nên không tập trung học bài, thậm chí không học bài ở nhà. Tình trạng học sinh đi học về không nhìn đến sách vở, hôm sau lại mang cặp đến trường không phải là hiếm gặp. Điều này khiến cho việc rèn kỹ năng tự học môn Ngữ Văn gặp không ít khó khăn.
– Đối với phụ huynh
Ngày nay, do tâm lí chung của một bộ phận phụ huynh bị ảnh hưởng bởi xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường nên chỉ hướng việc học của con cái vào một số môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tin học…Vì các bậc phụ huynh vẫn cho rằng đó là những môn học có lợi cho công việc, cho việc chọn nghề sau này. Từ đó dẫn đến việc các cháu ít hoặc không chú trọng đến môn Ngữ văn.
Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ giáo viên và học sinh, ta còn nhận thấy rằng tài liệu hướng dẫn học sinh tự học ở nhà môn Ngữ văn THCS nhằm rèn kỹ năng tự học còn chung chung, còn ít, còn hiếm. Điều này cũng phần nào gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình dạy học.
Trên đây là thực trạng thường thấy khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài tập ở nhà khiến cho việc rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh đạt hiệu quả chưa cao. Từ những hạn chế nêu trên đòi hỏi phải có biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự học ở nhà môn Ngữ Văn cấp THCS của học sinh góp phần thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, phát huy được yếu tố nội lực của bản thân mỗi học sinh.
III. Biện pháp thực hiện
1. Định hướng những biện pháp rèn kỹ năng tự học môn ngữ văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà
Định hướng cho các biện pháp rèn kỹ năng tự học môn Ngữ Văn THCS qua hoạt động học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.
– Định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Dự thảo “Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông sau 2015” nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình nhằm định hướng năng lực cho học sinh nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Ngoài những năng lực chung như: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực quản lý bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, … môn Ngữ Văn cấp THCS còn hướng tới hai năng lực đặc thù là năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức Văn học/cảm thụ thẩm mỹ. Vì vậy hướng dẫn học sinh học, chuẩn bị bài ở nhà trong môn Ngữ văn THCS chú trọng phát triển năng lực cho học sinh.
– Xuất phát từ các mục tiêu biên soạn sách giáo khoa
Sách giáo khoa là sự cụ thể hóa yêu cầu về kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học, đáp ứng yêu cầu phương pháp dạy học. Điều 32 Luật Giáo dục năm 2019, khẳng định: “Sách giáo khoa đề sử dụng chính thức thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.” Giáo viên hướng dẫn học sinh học ở nhà cần bám sát mục tiêu cần đạt, các phần, các mục của nội dung bài học và các hệ thống câu hỏi gợi ý, tìm hiểu ở sách giáo khoa. Tuy nhiên không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa.
– Cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng
Để hoạt động dạy – học môn Ngữ Văn THCS nói chung và hoạt động hướng dẫn học sinh học ở nhà nói riêng đạt được những yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kỹ năng, dạy – học không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa; giáo viên cần bám vào chuẩn kiến thức, kỹ năng của mỗi bài học, tiết học. Việc khai thác sâu về kiến thức, kỹ năng cần phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của đối tượng học sinh.
– Hướng dẫn sử dụng phương pháp tự học phải phù hợp với từng phân môn
Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS có cấu trúc tích hợp ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, giáo viên cần chú trọng tính tích hợp đó bởi ba phân môn này không hề tách biết mà luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm hình thành và rèn các kỹ năng cần thiết như nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng giao tiếp, … Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến phương pháp học tập cho từng phân môn bởi mỗi phân môn có những nét đặc thù riêng.
– Cần xuất phát từ đối tượng học sinh
Tuy cùng có chương trình học tập giống nhau, độ tuổi tương đối như nhau nhưng mức độ tiếp nhận, lĩnh hội tri thức của mỗi học sinh mỗi khác. Ngoài ra, hoàn cảnh, điều kiện để học tập khác nhau cũng phần nào ảnh hưởng đến thời gian và sự tiếp nhận, lĩnh hội tri thức của học sinh. Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh học ở nhà, người dạy cần quan tâm đến việc phân loại học sinh để giao bài và hướng dẫn các em phương pháp học tập phù hợp tránh quá dễ hoặc quá khó gây tình trạng nhàm chán hoặc chán nản đối với học sinh.
2. Các biện pháp sử dụng nhằm rèn kỹ năng tự học môn ngữ văn Lớp 7 Kết nối tri thức với cuộc sống cho học sinh qua hoạt động tự học ở nhà
2.1. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu, lòng đam mê đối với môn học
Trước hết, muốn học sinh có ý thức tự học tốt đối với môn Ngữ văn cần phải các em phải bồi dưỡng tinh yêu văn học. Vì vậy, giáo viên cần tạo cho học sinh niềm tin, sự yêu thích, đam mê. Muốn làm được điều này không chỉ ngày một, ngày hai mà phải là một quá trình kiên trì, bền bỉ của người dạy.
Thông qua các tiết học trên lớp, giáo viên có thể giới thiệu, khẳng định về tầm quan trọng, giá trị của môn học Ngữ Văn đối với bản thân mỗi người như: môn Ngữ Văn giúp chúng ta hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; khả năng giao tiếp, ứng xử với mọi người; hình thành, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp như tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tình yêu thiên nhiên, …; hướng chúng ta tới những vẻ đẹp của cuộc sống; hình thành những phẩm chất tốt đẹp như khiêm tốn, tự trọng, giản dị, … Từ đó bồi dưỡng tình yêu, niềm đam mê đối với văn học.
Để bồi dưỡng niềm đam mê môn học, sự hứng thú cho học sinh ngay từ việc tổ chức hoạt động khởi động, kiểm tra việc học bài cũ và chuẩn bị bài mới, qua quá trình học bài mới, hoạt động ngoại khóa cũng phải tạo được cảm hứng, sự lôi cuốn người học.
Ví dụ sau khi dạy xong văn bản “Đồng dao mùa xuân” (trang 40 sách Kết nối tri thức với cuộc sống tập 1) giáo viên có thể hỏi bài cũ:
+ Em hãy đọc thuộc một bài ca dao về bốn mùa và cho biết vẻ đẹp bốn mùa đó được thể hiện như thế nào trong bài ca dao?
Xem thêm:
- SKKN Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 – bộ sách Kết nối tri thức
- SKKN Giải pháp tổ chức hoạt động khởi động nhằm phát triển năng lực cho học sinh lớp 6 phần Lịch sử môn Lịch sử và Địa Lí (KNTT)
- SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử 6 (Bộ sách Kết nối tri thức)
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 124
- 1
- [product_views]
- 5
- 101
- 2
- [product_views]
- 7
- 148
- 4
- [product_views]
300.000 ₫
- 2
- 116
- 5
- [product_views]
300.000 ₫
- 0
- 154
- 6
- [product_views]
300.000 ₫
- 2
- 133
- 7
- [product_views]
300.000 ₫
- 4
- 189
- 8
- [product_views]
300.000 ₫
- 5
- 145
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 8
- 181
- 10
- [product_views]