SKKN Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn Sinh học 6
- Mã tài liệu: BM6101 Copy
Môn: | Sinh học |
Lớp: | 6 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 639 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 21 |
Tác giả: | Trần Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Phú Thượng |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 21 |
Tác giả: | Trần Thị Minh Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Phú Thượng |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn Sinh học 6” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2.1. Trang bị sách giáo khoa và đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
2.2. Nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh Bru- Vân Kiều để có phương pháp tác động cho phù hợp.
2.3. Hướng dẫn học sinh học bài trên lớp và chuẩn bị bài ở nhà một cách kĩ càng và chu đáo hơn.
2.4. Tăng cường sử dụng TBDH đặc biệt là mẫu vật sẵn có tại địa phương.
2.6. Giáo viên phải có lòng yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao.
2.7. Giáo viên phải chuẩn bị kĩ bài dạy.
2.8 : Thực hiện tốt các khâu lên lớp.
2.9. Đẩy mạnh đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Mô tả sản phẩm
- PHẦN MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài:
Để đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, Đảng ta đã thực hiện đường lối: “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đó chính là chìa khóa để đưa giáo dục Việt Nam tiến kịp với nền giáo dục các nước tiên tiến trên toàn cầu.
Thật vậy, muốn phát triển kinh tế trước hết phải coi trọng giáo dục để đào tạo. Chỉ có giáo dục mới tạo ra được các thế hệ con người mới vừa có kiến thức, vừa năng động sáng tạo trong công việc, dám nghĩ, dám làm đáp ứng với yêu cầu xây dựng đất nước trong thời đại mới. Muốn làm được điều đó, giáo dục phải không ngừng đổi mới mà cốt lõi chính là đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới cách dạy và cách học trong đó lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể của giáo dục, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn chủ thể hoạt động.
Tuy nhiên ở các vùng miền khác nhau thì trình độ dân trí cũng khác nhau và đối tượng học sinh cũng có sự chênh lệch nhau về nhận thức và trình độ. Đối với học sinh miền núi, tư duy, nhận thức cũng như kĩ năng sống của các em còn thấp hơn nhiều so với học sinh miền xuôi. Làm thế nào để các em có thể chủ động chiếm lĩnh kiến thức một cách chắc chắn và hiệu quả đó là cả một vấn đề. Là một giáo viên đang công tác tại một đơn vị miền núi, đối tượng học sinh củ tôi là học sinh người Bru Vân Kiều, tư duy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Làm thế nào để học sinh sớm tiến bộ, để có ý thức học tập cao hơn ? Làm thế nào để giúp các em cải thiện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp ? Nhưng câu hỏi đó làm tôi luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi và thử nghiệm giải pháp trong quá trình dạy học.
Qua 3 năm trực tiếp giảng dạy môn Sinh học lớp 6 tại đơn vị, tôi hiểu rằng để học sinh hiểu hết nội dung bài học, chủ động chiếm lĩnh kiến thức, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo đặc biệt là đối với học sinh con em dân tộc (Bru – Vân Kiều) thì đòi hỏi mỗi một giáo viên đứng lớp phải làm việc thật nghiêm túc, luôn tìm hiểu đặc điểm của đối tượng mình tác động để có phương pháp dạy học phù hợp.
Khác với học sinh vùng xuôi, con đường tìm đến con chữ của học sinh miền núi, vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn vất vả. Học sinh dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa có bản tính nhút nhát, thật thà, nhưng lòng tự trọng, tự ái thì rất cao. Nếu các em có gì không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm nhút nhát, thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế, có những lúc làm cho giáo viên “nóng mặt”. Nếu như giáo viên thiếu am hiểu tường tận và không có phương pháp dạy học phù hợp thì rất khó thành công.
Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất thực tế. Những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn. Kiến thức môn Sinh học lớp 6 rất gần với đời sống thực tiễn. Vì vậy nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên không khéo léo thì học sinh không nắm vững và hiểu được bản chất của kiến thức trọng tâm và đặc biệt sẽ không giải thích được một số hiện tượng sinh học trong đời sống thường ngày.
Xuất phát từ thực tế khách quan và những lý do trên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6”.
- Điểm mới của đề tài :
Tuy đề tài có thể trước đây được nhiều người nghiên cứu nhưng điểm mới và khác biệt ở đề tài này là : Đã đưa ra một số giải pháp giúp học sinh Bru-Vân Kiều học tốt môn sinh học 6. Đối tượng trong đề tài tôi đề cập là đối tượng học sinh dân tộc, các em học tập còn rất thụ động ; khả năng tự học, khả năng quan sát kênh hình tìm kiến thức ; khả năng tư duy logic, tính sáng tạo ; khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế.
- Phạm vi của đề tài:
+ Phạm vi: Chỉ đề cập một số giải pháp giúp học sinh Bru- Vân Kiều nơi tôi đang công tác học tốt môn sinh học 6.
+ Đối tượng : Giáo viên dạy bộ môn sinh học 6 và học sinh Bru- Vân Kiều lớp 6 tại đơn vị tôi công tác.
- NỘI DUNG
- Thực trạng
1.1. Thuận lợi
- Về phía giáo viên:
– Bộ môn được phân công giảng dạy phù hợp với chuyên môn.
– Được tập huấn đầy đủ về phương pháp dạy học mới.
– Đã giảng dạy bộ môn sinh học 6 nhiều năm
– Đã tiếp cận với học sinh con em dân tộc Bru- Vân Kiều 7 năm.
– Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian biểu và về lớp dạy tương đối phù hợp.
– Giáo viên được đào tạo đạt chuẩn
– Giáo viên đã nắm được hệ thống các phương pháp dạy học, biết phối hợp một cách nhuần nhuyễn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tạo nên nhiều tiết học sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh tham gia khám phá, tìm tòi kiến thức.
– Được học hỏi nhiều đồng nghiệp trong trường có chuyên môn nghiệp vụ tốt.
– Luôn có ý thức học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
– Giáo viên, học sinh thường tập trung sống ở nội trú nhà trường ( Từ thứ 2-> thứ 6) nên dễ nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nắm bắt được tình hình học tập và sở thích của các em để từ đó đề ra các biện pháp nhằm giúp các em học tốt và hiệu quả.
– Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào giáo viên. Các em thường dễ dàng nghe theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là giáo viên. Khi các em đã tin giáo viên, các em thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc mà giáo viên giao, nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ, điệu bộ … của giáo viên. Vì vậy đây chính là một điểm thuận lợi để giáo viên cố gắng trong giảng dạy để không phụ sự tin yêu của các em đã dành cho thầy cô, từ đó phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
– Trong những năm gần đây được sự quan tâm của phụ huynh và địa phương, phần nào đó đó tạo động lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
- Về phía học sinh:
– Kiến thức sinh học 6 rất gần gũi với cuộc sống của các em.
– Các em chăm ngoan, biết nghe lời.
– Các kiến thức mới được hình thành gắn chặt với các tình huống thực tiễn.
1.2. Khó khăn:
- Về phía giáo viên:
– Là trường vùng cao nên còn nhiều khó khăn, thiết bị dạy học số lượng cơ bản đầy đủ nhưng chất lượng chưa cao.
– Đội ngũ giáo viên còn trẻ, thiếu ổn định.
– Hơn nữa do trình độ nhận thức của các em và phụ huynh còn nhiều hạn chế, trước đây trong suy nghĩ của phụ huynh và các em là đi học cho thầy, cô chứ không phải đi học cho bản thân nên các em còn chây lười, nghỉ học tùy tiện, giáo viên đến vận động thì đi, không đến thì ở nhà, phụ huynh còn mang nặng tư tưởng khoán trắng cho nhà trường. Xuất phát từ động cơ học tập trên nên gây không ít khó khăn cho giáo viên.
– Học sinh dân tộc Bru – Vân Kiều là đối tượng rất thụ động, nhút nhát ít có hứng thú học tập với bộ môn.
– Phương pháp dạy học mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh tự tìm hiểu để tiếp cận với kiến thức mới tuy nhiên học sinh ở đây còn rất thụ động, tính tình thì nhút nhát, ngại tiếp xúc, ít tìm hiểu.
- Về phía học sinh:
– Học sinh lớp 6 mới được làm quen với phướng pháp mới ở trường THCS, mỗi môn mỗi thầy, mỗi thầy mỗi phương pháp dạy học nên các em còn nhiều bỡ ngỡ.
– Đối tượng học sinh là người dân tộc. Các em học tập hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thầy cô. Vì vậy thời gian trên lớp không đủ để giúp đối tượng học sinh dân tộc thành thạo, do vậy giáo viên phải tăng cường thêm các tiết ôn tập phụ đạo cho các em.
– Địa phương còn nhiều khó khăn, cuộc sống chủ yếu dựa vào làm rẫy và sự hỗ trợ của nhà nước, điều kiện sinh hoạt của đa số đồng bào dân tộc Bru – Vân Kiều còn ở mức thấp, do đó học sinh ngoài giờ học trên lớp còn phải phụ giúp gia đình làm kinh tế, vì vậy thời lượng học ở nhà của các em còn hạn chế.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 2
- 163
- 2
- [product_views]
- 3
- 183
- 3
- [product_views]
- 0
- 124
- 4
- [product_views]
- 0
- 134
- 5
- [product_views]
- 0
- 109
- 6
- [product_views]
- 5
- 101
- 7
- [product_views]
- 7
- 117
- 8
- [product_views]
- 1
- 174
- 9
- [product_views]
- 8
- 179
- 10
- [product_views]