LVTS DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN ĐA PHƯƠNG THỨC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ
- Mã tài liệu: LV0077 Copy
Môn: | LVTS |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 507 |
Lượt tải: | 3 |
Số trang: | 250 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
Số trang: | 250 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
Tìm hiểu đa dạng các loại VB từ VB hàng ngày, VB hành chính, VB văn
chương và VB thông tin; thảo luận về những yếu tố liên quan đến cấu trúc VB và
những đặc điểm ngôn ngữ; so sánh cấu trúc tổng thể và hiệu quả sự lựa chọn của tác
giả ở hai hay nhiều VB.
…Quan sát xem chuỗi các sự kiện liên tiếp được thể hiện bằng những phương tiện
hình ảnh như thế nào thông qua loạt hình ảnh, bao gồm cả những tranh hài hước, chuỗi
hình ảnh được sắp xếp theo dòng thời gian, những biểu đồ có tính quá trình, biểu đồ phát
triển, biểu đồ chu trình, chuỗi hình ảnh trong những quyển sách hình ảnh.
…So sánh nhiều VB với nhau để tìm hiểu các cách khác nhau mà các VB đã sử
dụng để trình bày ý kiến và sự kiện” [157].
Mô tả sản phẩm
1
. Lí do chọn đề tài
.1. Sự phát triển của đời sống và xã hội nghe, nhìn đã tạo ra thực tiễn VB sinh động,
1
đa dạng. Trên các phương tiện truyền thông in ấn như báo chí, tờ rơi hay quảng cáo,
hầu như từ ngữ luôn được trình bày với sự kết hợp của hình ảnh, sơ đồ và các bản vẽ.
Thêm vào đó, công nghệ in được cải thiện với nhiều loại phông chữ và hình dạng khác
nhau; màn hình hiển thị trở nên ngày càng phổ biến tại các cửa hàng, nơi làm việc,
trường học hay ở nhà; điện thoại di động có thể truyền gửi hình ảnh cũng như âm
thanh. Có thể thấy, phạm vi và cách thức giao tiếp của con người ngày càng mở rộng.
VB đa phương thức có mặt ở mọi lĩnh vực khác nhau, từ VB thông tin, VB thuyết
phục cho đến VB hư cấu. Để đáp ứng được những yêu cầu của xã hội hiện đại, người
lao động phải đọc được tất cả các dạng VB ấy. Điều đó một lần nữa được khẳng định
trong nhận xét của Frank Serafini: “vào thế kỉ XXI, người không có khả năng giải
quyết các VB đa phương thức được coi là người không hiểu biết” [DT 70, tr.84].
1
.2. Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, VB đa phương thức đã được đưa vào CT
giảng dạy ở phổ thông. Trong CT giáo dục ngôn ngữ và văn học của các nước Úc, Mĩ,
Hàn Quốc, dạy ĐH VB đa phương thức trong môn Ngữ văn đã trở thành một yêu cầu
bắt buộc. Bởi lẽ, khi HS học lên bậc học cao hơn, họ cần học các môn như khoa học tự
nhiên (Vật lí, Hóa học, Sinh học) và các môn khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí …) với
mức độ phức tạp ngày càng tăng dần. Với những hiểu biết về ĐH VB đa phương thức,
HS có phương tiện để có thể đọc được các thể loại VB khác nhau nhằm mục đích “báo
cáo hoặc tường thuật” (ví dụ: tường thuật lại quá trình thí nghiệm một hiện tượng và
báo cáo kết quả thí nghiệm), “giải thích” (ví dụ: giải thích một hiện tượng khoa học)
hoặc “tranh luận” (ví dụ: trình bày ý kiến về một hiện tượng trong đời sống với những
quan điểm khác nhau như “mặc áo dài truyền thống đến trường hay mang đồng phục
mới”)… Vì vậy, ĐH VB đa phương thức không chỉ là cơ sở cho học môn Ngữ văn mà
còn là cơ sở cho việc ĐH các môn học khác.
1.3. Thực tế trong nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay cho thấy, tuy HS chưa được
học cách đọc VB đa phương thức nhưng đã phải tiếp xúc với rất nhiều VB đa phương
thức ở các môn học khác nhau. Trong khi đó, môn Ngữ văn là môn học công cụ có
nhiệm vụ hình thành và phát triển cho HS năng lực giao tiếp, trong đó có giao tiếp đa
phương thức thì chưa dạy cho HS cách đọc loại VB này. Các tài liệu hỗ trợ GV và HS
trong quá trình dạy học như SGV, SBT chưa chú ý khai thác VB đa phương thức.
Với yêu cầu của CTGDPT môn Ngữ văn mới, VB đa phương thức rất được chú
ý, “ngoài nhiệm vụ hình thành, phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt, ngoại ngữ
và tiếng dân tộc thiểu số, giáo dục ngôn ngữ và văn học còn giúp HS sử dụng hiệu quả
2
những phương tiện giao tiếp khác như hình ảnh, biểu tượng, kí hiệu, sơ đồ, đồ thị,
bảng biểu…Giáo dục ngôn ngữ được thực hiện ở tất cả các môn học, trong đó Ngữ
văn, Ngoại ngữ và Tiếng dân tộc thiểu số có vai trò chủ đạo. Giáo dục văn học được
thực hiện chủ yếu ở môn Ngữ văn” [28, tr.14]. Điều đó khẳng định, VB đa phương
thức đã trở thành đối tượng ĐH trong môn Ngữ văn sau năm 2018. Do những thay đổi
trong việc xây dựng CTGDPT môn Ngữ văn nên một trong những vấn đề cấp thiết đặt
ra là cần phải có những công trình nghiên cứu cụ thể, chi tiết hơn về việc dạy cho HS
cách đọc VB đa phương thức.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Dạy học đọc hiểu văn bản đa
phương thức trong chương trình Ngữ văn THCS làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2
2
. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
.1. Những nghiên cứu về dạy học đọc hiểu văn bản đa phương thức trong môn
Ngữ văn ở nước ngoài
2
.1.1. Nghiên cứu về đọc hiểu văn bản
Vấn đề ĐH VB trên thế giới đã có từ lâu và đạt được nhiều thành tựu. Trong
phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ trình bày một số nét khái quát về vấn đề
ĐH VB. Ở Đức, từ thập niên 70 của thế kỉ XX, vấn đề ĐH đã được các nhà nghiên cứu
A. Brown, A Pugh, M. Adams, K.Goodman đưa ra bàn luận. Các tác giả đều khẳng định
hoạt động đọc có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của con người, giúp con người có
được tri thức, đồng thời phát triển con người về thể chất và tâm hồn.
Hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức lần thứ tư tại Brisbane, Australia từ
ngày 25 đến 27/08/1978 đã thu hút hơn 700 nhà khoa học uy tín trên thế giới. Các
tham luận không chỉ bàn về vấn đề ĐH nói chung mà còn đề cập tới tác dụng của việc
đọc đối với HS phổ thông và ý nghĩa của việc ĐH trong âm nhạc, toán học, ngoại
ngữ… Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu tham dự hội thảo, khái niệm ĐH
không chỉ bó hẹp trong phạm vi khoa học văn học mà còn được vận dụng vào các lĩnh
vực khoa học khác nằm trong CTGDPT.
Nhắc tới các công trình nghiên cứu về ĐH tổng quát, không thể không nhắc tới
“
bốn tập của cuốn Handbook of Reading Research được P. David Pearson và các cộng
sự biên tập gồm: tập 1, Nxb Psychology Press, 1984; tập 2, Nxb Psychology Press,
1
2
996; tập 3, Nxb Lawrence Erlbaum Associates, 2000; tập 4, Nxb Taylor &Francis,
010. Công trình đã mang đến cho người đọc những hiểu biết phong phú, đa dạng về
vấn đề ĐH trên nhiều phương diện khác nhau” [DT 82, tr.10].
Đến nay, ở Mỹ các cuốn sách về ĐH như Reading Comprehension
strategies của Danielle S. McNamara, Reading and Learning to Read (fifth edition) của
Jo Anne L. Vacca (và các tác giả khác), Literacy for the 21st Century A Balanced
3
Approach của Gail E. Tompkins, Readings for the 21st century (fifth edition) của
William Vesterman đang được coi là những tài liệu quý dành cho giới nghiên cứu về
ĐH VB [DT 50, tr.17].
–
Theo thời gian, khái niệm ĐH có sự thay đổi. UNESCO cho rằng: “ĐH là khả
năng nhận biết, thấu hiểu, giải thích, sáng tạo, trao đổi, tính toán và sử dụng những tài
liệu viết hoặc in ấn kết hợp với những bối cảnh khác nhau. ĐH đòi hỏi sự học hỏi liên
tục cho phép một cá nhân đạt được mục đích của mình, phát triển kiến thức, tiềm năng
và tham gia một cách đầy đủ trong xã hội rộng lớn” [169]. Cùng quan điểm đó, PISA
(2012) xác định “ĐH là sự hiểu biết, sử dụng và phản hồi lại trước một VB viết, nhằm
đạt được mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như việc tham gia hoạt động
của một ai đó trong xã hội” [166]. Theo PISA, “ định nghĩa về ĐH và năng lực
ĐH có sự thay đổi theo thời gian và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội”, “năng lực
ĐH không chỉ còn là một yêu cầu suốt thời kì tuổi thơ trong nhà trường phổ thông, mà
nó còn trở thành một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng, mở rộng những kiến
thức, kĩ năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời khi họ tham gia vào
các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối quan hệ với người xung
quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn” [166]. Theo đó, đối tượng của ĐH
được mở rộng gồm nhiều loại VB khác nhau. PISA xác định đối tượng ĐH bao gồm:
VB liên tục như tự sự, giải thích, miêu tả, lập luận, hướng dẫn, VB hoặc ghi chép, siêu
VB và VB không liên tục như biểu đồ, đồ thị, sơ đồ, thông báo, quảng cáo, hóa đơn,
chứng từ, văn bằng, chứng chỉ…Ở các nước có nền giáo dục phát triển, đối tượng ĐH
trong môn ngôn ngữ và văn học rất phong phú. Điều đó được thể hiện rõ trong CT
ngôn ngữ của Singapore và Australia, chuẩn CT của bang California (Mĩ). Cụ thể:
CT tiếng Anh của Singapore xác định:
“
Khi kết thúc trung học, HS có khả năng giao tiếp hiệu quả bằng tiếng Anh.
Trong tiếp nhận ngôn ngữ: có thể nghe, nhìn, đọc chính xác, có phản biện, đánh giá
các loại thông tin, VB từ các nguồn khác nhau…” [164].
Các nhà giáo dục ở Australia đã xây dựng CT tiếng Anh nhằm “bảo đảm cho
HS học nghe, đọc, quan sát, nói, viết, sáng tạo và phản ánh dựa trên các loại VB nói,
viết và đa phương thức hết sức đa dạng, phức tạp và tinh tế; sử dụng chính xác, thành
thạo và có mục đích trong một phạm vi phát triển của bối cảnh…” [156].
Thông điệp Ủy ban Giáo dục bang California và Ủy ban giám sát chỉ đạo quốc
gia đã nêu lên mục tiêu chung của ĐH VB là “giúp HS trở thành một người có khả
năng đọc … ở thế kỷ 21. Các HS học đọc một cách có ý thức và kĩ lưỡng, học phân
tích các tác phẩm văn học và một loạt các VB không hư cấu trong một thế giới bùng
nổ các loại VB và phần mềm kĩ thuật số” [158].
4
–
Bàn về cách đọc VB, nhóm tác giả Gordon Winch, Rosemary Ross Johnston,
Marcelle Holliday, Lesley Ljungdahl, Paul March đã đưa ra quan niệm về cách đọc
VB trong cuốn Literacy. Xuất phát từ quan điểm VB có thể được in toàn bộ hoặc chứa
các yếu tố hình ảnh như minh họa, biểu đồ, bản đồ và đồ thị trong hầu hết các sách cho
trẻ em, có những VB được trình bày dưới dạng kĩ thuật số hoặc chứa các yếu tố trực
quan, thậm chí là cả âm thanh, nhóm tác giả cho rằng cốt lõi của việc đọc là ý nghĩa.
Đọc là mang ý nghĩa đến và lĩnh hội ý nghĩa từ VB. Trong việc hình thành ý nghĩa từ
VB, người đọc cần kết hợp những điều họ biết về thế giới với chủ đề của VB, cấu trúc
ngữ pháp của ngôn ngữ [135]. Như vậy, các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò
quan trọng của kiến thức nền trong quá trình ĐH VB.
Trong cuốn Methodology in Language teaching, hai tác giả Jack C. Richards và
Willy A. Renandya đã khẳng định: kĩ năng đọc là một kĩ năng được đánh giá cao bởi HS
và GV. Các tác giả đã nghiên cứu và hướng dẫn về việc đọc ngôn ngữ thứ nhất (tiếng
mẹ đẻ) và ngôn ngữ thứ hai, trong đó có điểm trùng hợp là lợi ích của việc trình bày
bằng đồ thị và đọc có chiến lược đều là yếu tố then chốt để đọc tốt hai loại ngôn ngữ.
Hai tác giả Taffy E. Raphael và Efrieda H. Hiebert đã chỉ ra những kĩ năng ĐH
quan trọng, có tính hữu dụng cao hỗ trợ cho quá trình ĐH VB đó là: xác định thông tin
quan trọng trong VB; tóm tắt thông tin; suy luận; đặt câu hỏi; theo dõi khả năng hiểu,
bao gồm tự đánh giá và điều chỉnh những thủ thuật khi cần thiết. Cùng với quan điểm:
kĩ năng đọc có vai trò quan trọng trong quá trình ĐH VB, tác giả người Mỹ John Langan
đã dành gần 120 trang trong phần bốn của cuốn Reading and Study skills để trình bày
mười kĩ năng hỗ trợ quá trình ĐH VB: xác định các định nghĩa và ví dụ, xác định các
chuỗi luận điểm, xác định các đầu đề và đầu đề phụ, xác định các từ chỉ dẫn, xác định ý
chính trong đoạn văn, lập dàn ý, tóm tắt, hiểu các bảng biểu và đồ thị, suy luận, tư duy
phản biện. Những kĩ năng nêu trên không chỉ sử dụng đối với VB văn học mà còn được
sử dụng khi muốn ĐH hiệu quả các loại VB khác.
PISA 2012 cho rằng khi ĐH, “người đọc phải hoàn thành 5 nhiệm vụ đọc như
sau: lấy thông tin từ VB; tạo nên sự hiểu biết chung về VB; phát triển sự giải thích về
VB; phản ánh và đánh giá về nội dung của VB; phản ánh và đánh giá về hình thức của
VB. Năm nhiệm vụ trên được tổ chức thành ba khía cạnh chính: truy cập và lấy thông
tin; tích hợp và giải thích; phản ánh và đánh giá” [166]. ĐH theo phương pháp nào
cũng bao gồm một loạt các kĩ năng giải mã các yếu tố ngôn từ của VB đến việc phân
tích, đánh giá để hiểu nội dung và hình thức của VB, từ đó vận dụng những gì đã đọc
vào thực tiễn đời sống của cá nhân theo những mục đích nhất định.
Có thể nêu lên một số nhận xét khái quát về kết quả nghiên cứu ĐH mà các tác
giả đã đề cập đến như sau:
5
–
ĐH VB là một năng lực quan trọng mà HS cần được hình thành và phát triển
trong suốt những năm học phổ thông. Bởi lẽ, năng lực ĐH VB không chỉ giúp HS hoàn
thành các nhiệm vụ học tập ở trường học, mà còn đáp ứng nhu cầu của cuộc sống để tồn
tại, làm việc và phát triển. Đặc biệt, năng lực ĐH ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công sau
này của HS, tổ chức khảo thí Mĩ đã thống kê và đưa ra cảnh báo sau đây:
–
Để ĐH tốt, người đọc cần được trang bị nhiều hành trang, trong đó tri thức
nền và chiến thuật ĐH có vai trò rất quan trọng. Những tri thức này sẽ quyết định
kết quả ĐH xét từ góc độ người đọc với tư cách là người kiến tạo ý nghĩa VB dựa trên
những hiểu biết và kinh nghiệm vốn có của mình.
–
Không có phương pháp ĐH chung cho tất cả các loại VB mà cần căn cứ vào
nhiều yếu tố như: đối tượng tiếp nhận, loại VB, mục đích đọc, từ đó người đọc sẽ lựa
chọn được những phương pháp ĐH thích hợp.
2
.1.2. Nghiên cứu về dạy học đọc hiểu văn bản
Trong báo cáo tại hội nghị đọc lần thứ 4 ở Brisbane (1978), H. Alan Robinson
khẳng định việc sử dụng hệ thống câu hỏi phong phú là cách thức để GV đánh giá khả
năng của từng HS cụ thể qua mỗi bài học. Bên cạnh đó, ông cho rằng GV cần quan
tâm đến kiến thức nền của HS và hướng HS tới nhiều mục đích đọc khác nhau để gia
tăng sự hiểu biết của họ. Theo ý kiến của ông, GV phải “cố gắng tìm hiểu càng nhiều
càng tốt về kho tàng kiến thức nói chung của mỗi HS; tuy nhiên, kiến thức nền nên
được khai thác trước khi đọc một chủ đề cụ thể” [DT 40, tr.14].
Cùng quan điểm trên, Taffy E. Raphael và Efrieda H. Hiebert với chuyên luận
Phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản đã chỉ ra quá trình dạy học ĐH gồm ba giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất kích hoạt kiến thức sẵn có (experience – kinh nghiệm), những gì
mà HS biết liên quan đến chủ đề sẽ được kích hoạt thông qua một loạt những hoạt động
dạy học. Giai đoạn thứ hai (text – văn bản) chủ yếu tập trung vào đọc để giải mã các
6
thông tin, một cách rất phổ biến để khuyến khích HS đọc là yêu cầu HS trả lời các câu
hỏi. Trong suốt giai đoạn này, các câu hỏi được đặt ra để hướng dẫn cho HS đọc và hiểu
VB. Trong giai đoạn cuối (relationships – quan hệ), HS được khuyến khích liên hệ giữa
thông tin đã nắm bắt với kinh nghiệm nêu ra trong giai đoạn đầu.