LVTS Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng tmcp Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh hàng trống
- Mã tài liệu: LV0019 Copy
Môn: | LVTS |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 596 |
Lượt tải: | 3 |
Số trang: | 85 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
Số trang: | 85 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại
– Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
– Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
Mô tả sản phẩm
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, vốn đang trở thành một vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Hệ thống ngân hàng là nơi tích tụ, tập trung, khơi dậy các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế thông qua việc cung cấp nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Theo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021- 2030, nước ta đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7- 8%/năm. Trong điều kiện các kênh dẫn vốn khác của thị trường tài chính chưa thực sự phát triển thì nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng hiện đang giữ vai trò then chốt.
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu, có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.Vì vậy, các ngân hàng thương mại rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu kinh doanh của mình.Có thể nói hoạt động huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại.
Nhận thức được vấn đề đó, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Chi nhánh Linh Đàm (VPBank) luôn coi nhiệm vụ huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, xuyên suốt trong định hướng, chiến lược kinh doanh. Trong đó, tập trung vào huy động vốn dân cư, định chế tài chính, tổ chức kinh tế nhằm tạo lập nền tảng vốn vững chắc, ổn định, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng tín dụng và mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường năng lực cạnh tranh.
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Chi nhánh Linh Đàm, kinh doanh trên một địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng hoạt động, do đó chịu nhiều sức ép cạnh tranh về huy động vốn, hoạt động tín dụng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng huy động vốn là một trong những đòi hỏi cấp thiết, vừa có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề huy động vốn của ngân hàng, tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng Chi nhánh Linh Đàm” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại
– Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
– Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
– Đối tượng nghiên cứu là hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm trong nền kinh tế thị trường
– Phạm vi nghiên cứu là hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm giai đoạn 2015-2021
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đây có cùng nội dung liên quan và các cơ sở lý luận về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại, luận văn tìm hiểu thực trạng huy động vốn từ các số liệu, dữ liệu thực tế để phân tích, đánh giá đi đến các kết luận và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm.
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là
Phương pháp định tính (bảng hỏi, survey…)
– Phương pháp định lượng
5. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Linh Đàm
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NG N HÀNG THƯƠNG MẠI
Để có thể tồn tại và phát triển các Ngân hàng thương mại phải lựa chọn cho mình con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề của mình trong bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại (NHTM) tăng cường hoạt động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước, từ đó có thể đảm bảo khả của ngân hàng. Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng nó là một nghiệp vụ rất quan trọng. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của NHTM. Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn, NHTM sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
Lý luận cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
“Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động mà trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định pháp luật”
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động Ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhằm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ, Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, Ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các Ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các NHTM.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất của các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.
Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính Ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của NHTM lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của NHTM.
Khái niệm
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo qui định của Luật các Tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận”trong đó “ Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi, Cấp tín dụng và Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. (Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của Việt Nam tại khoản 3 điều 4)[7].
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại chính là những giá trị tiền tệ đượcngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động với mục đích để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
1.1.2 Phân loại
1.1.2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Đây là nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được chia ra thành vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng; vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1.
Theo văn bản hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt nam,vốn được xác định cụ thể như sau:
Vốn cấp 1: bao gồm:
+) Vốn điều lệ: là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Tuỳ theo các hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với NHTM nhà nước thì vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập và được bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. NHTM cổ phần thì vốn do các cổ đông đóng góp; ngân hàng liên doanh thì vốn điều lệ do các bên tham gia liên doanh đóng góp. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thì vốn này do ngân hàng mẹ cấp. Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và quy mô hoạt động của từng ngân hàng, nhưng không được thấp hơn mức vốn pháp định mà luật pháp quy định cho từng loại ngân hàng.
+) Các quỹ dự trữ: Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM trong quá trình hoạt động đã trích lập các quỹ. Các quỹ của NHTM bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khác như: quỹ phúc lợi, quỹ phát triển nghiệp vụ…Việc trích lập và sử dụng các quỹ này của ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật trong từng thời kì cụ thể.
+) Lợi nhuận không chia: là phần thu nhập của ngân hàng được giữ lại trong quá trình hoạt động kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông. Tỉ lệ giữ lại này tuỳ thuộc vào sự cân nhắc quyết định của chủ ngân hàng và tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng trong các thời kì cụ thể.
Vốn cấp 2:
Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng; nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và dự phòng chung cho rủi ro tín dụng. Tuy có vai trò và độ tin cậy thấp hơn vốn cấp 1, song vốn cấp 2 là một trong hai thành tố quan trọng để đánh gia mức độ an toàn vốn của một ngân hàng.
1.1.2.2 Vốn huy động
Lượng vốn mà ngân hàng cần có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình là rất lớn. Cho nên việc tạo lập nguồn vốn cho NHTM là vấn đề hết sức cần thiết. Mặt khác, NHTM hoạt động theo tiêu chí “đi vay để cho vay” nên bộ phận không thể thiếu trong nguồn vốn của ngân hàng là vốn huy động. Vốn huy đông của NHTM dưới hình thức bằng tiền nội tệ, ngoại tệ và vàng được hình thành từ hai bộ phận là: vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá (GTCG).
Vốn huy động từ tiền gửi:
Để huy động vốn, các ngân hàng đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn tiền gửi của các NHTM bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá
Nguồn vốn mà NHTM có được thông qua phát hành GTCG như: kì phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… Đối tượng mua các GTCG là các tổ chức, cá nhân.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn (trên 80%) trong toàn bộ vốn kinh doanh của NHTM. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế trong điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
1.1.2.3 Vốn đi vay
Là loại vốn mà Ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn vay, và đối tượng vay khác nhau bao gồm:
Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên Ngân hàng hoặc vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên Ngân hàng, phương thức này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách kịp thời.
Nguyên tắc vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác:
+) Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp
+) Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng
+) Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của Ngân hàng trung ương.
Vay từ Ngân hàng Trung ương
Dù các NHTM thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể tránh khỏi lúc mất khả năng chi trả hoặc thiếu tiền mặt tạm thời, lúc đó NHTW chính là vị cứu tinh của NHTM, là nguồn vay sau cùng.
Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay dưới các hình thức:
+) Tái cấp vốn
+) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
+) Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
+) Cho vay theo loại hồ sơ tín dụng
Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ, nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách thuận lợi. Trong những trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp nhận, NHTW còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn bộ hệ thống.
1.1.2.4 Vốn khác
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên trong quá trình hoạt động các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:
+) Vốn trong thanh toán: Là nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập được trong quá trình làm trung gian thanh toán. Cụ thể:
Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người hưởng thụ do còn phải luân chuyển và xử lý chứng từ thanh toán.
Số vốn trong thời gian khách hàng gửi lưu ký tại ngân hàng để thực hiện một số hình thức thanh toán như: Séc bảo chi, thư tín dụng, thẻ ký quỹ,…
+) Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ: Nguồn vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn trả lại cho chủ đầu tư. Hơn nữa khi thực hiện các nghiệp vụ này ngân hàng sẽ hưởng hoa hồng phí. Ngoài ra các NHTM còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, hay thu hộ lợi tức chứng khoán cho khách hàng. Qua nghiệp vụ này ngân hàng cũng tạo thêm nguồn vốn cho mình.
+) Vốn vay trên thị trường vốn: Các NHTM có thể tìm kiếm nguồn vốn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn như: kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Thông thường đây là khoản cho vay không có đảm bảo. Khả năng vay mượn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính. Bởi vì khả năng chuyển đổi của các công cụ nợ càng cao thì khả năng huy động vốn qua kênh này càng nhiều. Bên cạnh đó các yếu tố khác ảnh hưởng đến kênh huy động vốn này như: vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất và vấn đề bảo quản chứng từ sau bán. Vì vậy các ngân hàng cũng cần hết sức quan tâm đến vấn đề này.
Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn nhưng điều đặc biệt là đối với nguồn vốn này, Ngân hàng không những không phải tốn kém chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch vụ Ngân hàng đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng đa dạng hơn.
1.1.3 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động rất quan trọng và không thể thiếu đối với các NHTM. Đây chính “đầu vào” của hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt này. Quá trình huy động vốn đó hầu như đều giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức huy động vốn thì lại rất khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được lựa chọn để phân loại.
1.1.3.1 Phân loại theo hình thức huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các NHTM sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ rang tạo sự thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành huy động vốn. Các hình thức huy động bao gồm:
Huy động vốn từ tiền gửi
+) Huy động vốn từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền bất cứ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ thõa mãn các nhu cầu đó. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi ngân hàng không phải trả lãi. Nên nguồn vốn này giúp ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đầu tư và cho vay.
Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình cạnh tranh, để thu hút khách hàng, các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc chỉ hưởng lãi suất không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động trong nguồn vốn kinh doanh. Vì vậy để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có các loại kỳ hạn: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,…Với mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức lãi suất nhất định theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
+) Huy động tiền gửi từ dân cư: Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại ngân hàng. Tiền gửi dân của dân cư bao gồm:
Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Trong hình thức huy động vốn này, người gửi tiền được giữ một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này được coi như giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ tiết kiêm của ngân hàng. Sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc chiết khấu để vay vốn ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
Tiền gửi thanh toán: Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác có liên quan của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các ngân hàng chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi lĩnh nhiều nơi với lãi suất hợp lý.
Tiền gửi khác: Bao gồm tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội; tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của kho bạc nhà nước,…
+) Huy động vốn thông qua phát hành GTCG: Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các NHTM. Trong quá trình hoạt động tại những thời điểm nhất định, ngân hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận cao. Điều đó có nghĩa là ngân hàng cần huy động vốn ở thế chủ động, tính đầu vào mới tính đầu ra. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng. Để huy động vốn trên thị trường GTCG, ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.
+) Huy động vốn từ nguồn vốn vay: Hình thức huy động vốn này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các NHTM có thể vay từ nhiều nguồn:
Vay từ các tổ chức tín dụng: Các Ngân hàng thương mại có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài chính tín dụng. Đối với những ngân hàng ở các nước phát triển có quan hệ rộng khắp thì nguồn vốn này là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng. Nguồn vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các ngân hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn quan trọng. Tuy nhiên đối với các quốc gia đang phát triển, các ngân hàng thương mại thường có quan hệ quốc tế hạn hẹp, do đó việc thu hút những nguồn vốn này còn nhiều hạn chế và thường được huy động theo các chương trình dự án quốc tế.
Vay từ NHTW: Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới nhiều hình thức như cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá cuả ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn điều hòa trong hệ thống: Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn thì có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Để giải quyết tình trạng này các ngân hàng thương mại hoặc các Sở tài chính sẽ thực hiện việc điều hoà nguồn vốn trong hệ thống. Chính vì vậy nguồn vốn điều hoà trong hệ thống cũng là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp cho ngân hàng có thể mở rộng được hoạt động trên thị trường và làm tăng lợi nhuận của ngân hàng.
Huy động vốn qua các hình thức khác: Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng tài trợ…Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân hàng nguồn huy động lớn giúp ngân hàng có thể kinh doanh an toàn và hiệu quả.
1.1.3.2 Phân loại căn cứ theo thời gian huy động vốn
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức huy động vốn được chia thành:
Huy động vốn ngắn hạn:
Đây là hình thức huy động vốn chủ yếu trong các ngân hàng thương mại thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán…Phần lớn số này được dùng để cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém.
Huy động vốn trung hạn:
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất cao.
Huy động vốn dài hạn:
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn. Đối với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5 năm trở lên)