LVTS Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty mẹ- tập đoàn xăng dầu Việt Nam
- Mã tài liệu: LV0028 Copy
Môn: | LVTS |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 596 |
Lượt tải: | 9 |
Số trang: | 102 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
Số trang: | 102 |
Tác giả: | |
Trình độ chuyên môn: | |
Đơn vị công tác: | |
Năm viết: |
– Hệ thống hóa và làm rõ về những vấn đề lý luận về tài sản ngắn hạn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp.
– Phân tích, đánh giá thực trạng tài sản ngắn hạn và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2017- 2021.
– Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
Mô tả sản phẩm
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, đạt hiệu quả kinh doanh là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện hàng đầu, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chỉ có doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả mới bù đắp được chi phí kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, đảm bảo thu nhập cho người lao động và có tích lũy để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là tiền đề giúp doanh nghiệp đổi mới, phát triển.
Tài sản ngắn hạn (TSNH) là loại tài sản quan trọng phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh, lưu chuyển hàng hóa và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng, bởi khác với tài sản cố định, tài sản ngắn hạn cần phải có các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp, trong từng thời điểm thì mới đem lại hiệu quả cao. Sử dụng tài sản ngắn hạn có hiệu quả là một trong những căn cứ để đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ, tiêu thụ sản phẩm và chất lượng công tác quản lý của doanh nghiệp, đồng thời ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp là phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc kinh doanh, tài chính, tín dụng và tuân thủ luật pháp.
Xăng dầu là hàng hóa thiết yếu, là huyết mạch của nền kinh tế, xuất hiện trong mọi hoạt động của con người, đặc biệt là lĩnh vực giao thông vận tải và sản xuất – hai hoạt động chính tác động đến đa số các ngành nghề khác trong xã hội. Bên cạnh đó, ngoài chức năng là một hàng hóa, xăng dầu còn đóng vai trò ổn định giá cả thị trường và thực hiện sứ mệnh dự trữ an ninh năng lượng, nhiệm vụ quốc phòng. Trong khi đó, xăng dầu lại là loại năng lượng có hạn, không thể tái tạo và hiện vẫn là nguồn năng lượng chính chưa thể thay thế. Sự biến động về giá cả trên thị trường xăng dầu thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam đang ngày càng phát triển. Theo đó, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cùng với 36 doanh nghiệp đầu mối khác đang tuân thủ những quy tắc, quy định nghiêm ngặt của Nhà Nước về kinh doanh xăng dầu như quy định về nhập- xuất hàng, phương tiện vận tải, hệ thống kho bể, hệ thống phân phối, và đặc biệt là khống chế giá bán trên thị trường. Với áp lực duy trì nguồn hàng, tồn kho và cân đối dòng tiền lớn yêu cầu doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải sử dụng tài sản ngắn hạn hợp lý và có hiệu quả.
Công ty Mẹ là cơ quan đầu não của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam có vai trò là trung tâm điều tiết tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính trên toàn hệ thống Petrolimex. Vì vậy, áp lực điều hành và quản lý tài sản ngắn hạn là luôn là bài toán thường trực. Tuy đã có những thành tựu trong công tác sử dụng TSNH nhưng vẫn còn một số hạn chế gây ảnh hưởng tới dòng tiền cũng như hiệu quả sử dụng TSNH tại Công ty mẹ. Vì vậy, việc sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả là điều trăn trở của tôi cũng như đội ngũ cán bộ và người lao động làm công tác điều hành và theo dõi hệ thống tài chính kế toán của Công ty Mẹ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cũng như cơ sở lý luận trên là động lực để tôi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ- Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
– Hệ thống hóa và làm rõ về những vấn đề lý luận về tài sản ngắn hạn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp.
– Phân tích, đánh giá thực trạng tài sản ngắn hạn và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2017- 2021.
– Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Tài sản ngắn hạn và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Trong phạm vi đề tài, tác giả nghiên cứu về hiệu quả sử dụng TSNH tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
+ Về thời gian: Số liệu khảo sát về tình hình tài sản ngắn hạn và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2017 – 2021.
4. Phương pháp nghiên cứu
– Các phương pháp nghiên cứu:
Trong phạm vi luận văn, tác giả thực hiện đồng thời các phương pháp để nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn như: phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối, phương pháp bình quân số học, phương pháp tỷ lệ và phương pháp tỷ số.
– Nguồn thu thập dữ liệu:
+ Về cơ sở lý luận về tài sản ngắn hạn và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn: giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Quản trị kinh doanh, Nguyên lý kế toán của trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Học viên Tài chính.
+ Các công trình, đề tài có liên quan về xăng dầu, kinh doanh xăng dầu cũng như về tài sản ngắn hạn là các luận văn, luận án tại các trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Đại học Kinh tế- ĐH Quốc Gia Hà Nội để so sánh và có cái nhìn tương quan về chủ đề nghiên cứu.
+ Các văn bản, quan điểm của Nhà nước, Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, các số liệu thống kê và có liên quan đến thị trường xăng dầu tại các trang web của Chính phủ, các Bộ, Ngành và hiệp hội xăng dầu.
+ Về số liệu, thông tin liên quan đến Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam: tác giả thu thập số liệu thông qua thông tin công khai từ cổng thông tin điện tử chính thức của Tập đoàn bao gồm: Báo cáo tài chính Công ty Mẹ, báo cáo thường niên, báo cáo phát triển bền vững các năm từ năm 2017 đến năm 2021,… Ngoài ra, tác giả còn thu thập thêm số liệu từ nguồn nội bộ công ty và phỏng vấn một số đối tượng như Kế toán trưởng, Trưởng phòng Kế toán, các chuyên viên phòng Kế toán, Xuất nhập khẩu, Kinh doanh để có thể đưa ra chính xác đánh giá về từng số liệu của từng giai đoạn.
– Cách thức xử lý và phân tích số liệu:
Từ những dữ liệu, số liệu đã thu thập được, tác giả dùng các phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối, bình quân số học, tỷ lệ và phương pháp tỷ số để phân tích, so sánh dựa trên các tiêu chí đánh giá để đánh giá mức độ hiệu quả trong sử dụng tài sản ngắn hạn. Từ đó, tìm ra nguyên nhân của sự ảnh hưởng và đưa ra các biện pháp khắc phục cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu & kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Mẹ Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tài sản ngắn hạn và phân loại tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản ngắn hạn
Theo quy định của nhà nước Việt Nam: “Tài sản ngắn hạn phản ánh tổng giá trị tiền, các khoản tương đương tiền và các tài sản ngắn hạn khác có thể chuyển đổi thành tiền, có thể bán hay sử dụng trong vòng không quá 12 tháng hoặc một chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo, gồm: Tiền, các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.”
Tài sản ngắn hạn được phân bố tại tất cả các công đoạn, các khâu của hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp để đảm bảo cho quá trình SXKD được diễn ra liên tục, ổn định, không bị ngắt quãng, tránh lãng phí và tổn thất vốn, không làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời cho tài sản. Do đó, tài sản ngắn hạn có những đặc điểm:
Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao và thời gian luân chuyển nhanh chóng, đáp ứng khả năng thanh toán, phản ánh sức mạnh tài chính của doanh nghiệp
Trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn luôn được vận động, được chuyển hóa không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác.
Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vất chất sang tiền tệ nên vận động phức tạp và khó quản lý.
Tài sản ngắn hạn sẽ có giá trị cao hơn sau các lần luân chuyển, tài sản ngắn hạn sẽ được thu hồi khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
Theo yêu cầu quản lý khác nhau của từng doanh nghiệp mà tài sản ngắn hạn có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau.
1.1.2.1. Phân loại theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn:
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong chu kì kinh doanh (quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh) tài sản ngắn hạn sản xuất và lưu thông luôn chuyển hóa lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình SXKD được liên tục. Để hình thành nên TSNH sản xuát và lưu thông cần có một số vốn tương ứng để đầu tư vào các tài sản đó, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Như vậy căn cứ vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, TSNH được chia ra như sau:
+ Tài sản ngắn hạn dự trữ: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán.
+ Tài sản ngắn hạn sản xuất: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu sản xuất của doanh nghiệp bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất,…
+ Tài sản ngắn hạn lưu thông: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách hàng,…
Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp xác định được nhân tố ảnh hưởng đến quá trình lưu chuyển của tài sản ngắn hạn để đưa ra biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng một cách cao nhất.
1.1.2.2. Phân loại theo kết cấu khoản mục trên bảng cân đối kế toán:
– Tiền và các khoản tương đương tiền: Đây là khoản mục tổng hợp toàn bộ tiền và các khoản tương đương tiền hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo.
Tiền được hiểu là tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp, tiền gửi ngân hàng (không kỳ hạn) và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn có thời hạn thu hồi không quá 3 tháng kể từ ngày đầu tư, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi ro trong việc chuyển đổi thành tiền. Các khoản tương đương tiền chủ yếu bao gồm: Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn gốc không quá 3 tháng, tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, , …
– Đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài được thực hiện dưới hình thức cho vay ngắn hạn, đầu tư ngắn hạn, mua bán chứng khoán,… Các khoản đầu tư này có thời gian sử dụng cho đến thu hồi vốn không quá một năm hoặc trong một chu kì kinh doanh, không bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn có thời gian thu hồi không quá 3 tháng kể từ ngày mua tại thời điểm báo cáo (các khoản này đã được tính vào chỉ tiêu “các khoản tương đương tiền”)
– Các khoản phải thu ngắn hạn : Bao gồm các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng, phải thu nội bộ ngắn hạn, trả trước người bán, các khoản phải thu ngắn hạn khác tại thời điểm báo cáo. Các khoản phải thu này có thời hạn thu hồi hoặc thanh toán dưới một năm hoặc trong một chu kì kinh doanh.
Ngoài ra, khi các khách hàng của doanh nghiệp gặp thất bại, rủi ro trong kinh doanh sẽ làm phát sinh các khoản nợ khó đòi. Vì vậy, việc tính lập các khoản dự phòng là cần thiết, nó sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường và tương đối ổn định. Khoản dự phòng này là một bộ phận trong khoản phải thu và là một phần tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được gọi là dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi.
– Hàng tồn kho: Bao gồm toàn bộ hàng hóa, vật tư, nguyên liệu đang tồn tại kho, quầy hàng, xưởng sản xuất như: nguyên liệu chính, phụ liệu, vật liệu bổ trợ, nhiên liệu, thành phẩm, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, công cụ…
– Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm các tài sản ngắn hạn khác có thời hạn đáo hạn không quá 12 tháng tại thời điểm báo cáo như tạm ứng, chi phí trả trước ngắn hạn, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản cấm cố, ký quỹ, ký cược ngắn hạn, thuế GTGT còn được khấu trừ, giao dịch trái phiếu Chính phủ, các khoản thuế phải thu Nhà Nước và tài sản ngắn hạn khác tại thời điểm báo cáo.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ sử dụng cách phân loại này để đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Định nghĩa về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả được hiểu là mối quan hệ giữa kết quả thực hiện được các mục tiêu hoạt động và chi phí họ phải bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một điều kiện nhất định. Như vậy, hiệu quả phản ánh việc thực hiện các mục tiêu hành động liên quan đến chi phí bỏ ra, xem xét trong bối cảnh hay điều kiện nhất định và đồng thời xem xét theo đánh giá, góc nhìn của chủ thể nghiên cứu.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước, các doanh nghiệp muốn tồn tại trước tiên phải kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh sẽ là thước đo phản ánh trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, quyết định đến sự thành công và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Theo Nguyễn Văn Công (2019) “Hiệu quả kinh doanh là sự so sánh giữa kết quả đầu ra và các yếu tố đầu vào của một tổ chức kinh tế được xem xét trong một kỳ nhất định, tùy theo yêu cầu của nhà quản trị kinh doanh.”
Các yếu tố đầu vào bao gồm: tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh, kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như khối lượng sản phẩm (tính bằng hiện vật và giá trị) và lợi nhuận ròng. Dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu kết quả đầu ra là doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, lợi nhuận sau thuế TNDN.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh được tính theo hai cách:
Về so sánh tuyệt đối: H= K-C
Trong đó: H là hiệu quả kinh doanh
K là kết quả đầu ra
C là chi phí đầu vào
Cách tính này tuy đơn giản, tiện lợi nhưng lại không thể phản ánh hết được chất lượng kinh doanh cũng như tiềm năng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, cách tính này cũng không thể so sánh được hiệu quả kinh doanh giữa các bộ phận, các đơn vị trong doanh nghiệp mà từ đó có thể so sánh mức độ sử dụng nguồn lực là tiết kiệm hay lãng phí.
Về so sánh tương đối: H
=
K
C
Cách tính này đã khắc phục được tồn tại của cách so sánh tuyệt đối nó giúp cho việc nghiên cứu hiệu quả kinh doanh được toàn diện hơn.
Như vậy, từ những khái niệm nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả kinh doanh, có thể rút ra khái niệm về hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Đó là sự so sánh giữa kết quả đầu ra và các chỉ tiêu đầu vào của TSNH của một tổ chức kinh tế được xem xét trong một kỳ nhất định, tùy theo yêu cầu của nhà quản trị kinh doanh.”
Hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với mức chi phí tối thiểu. Các doanh nghiệp đều cố gắng sao cho tài sản được đưa vào sử dụng hợp lý để kiếm lợi cao nhất đồng thời luôn tìm các nguồn tài trợ, tăng TSCĐ hiện có để mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chất và lượng, đảm bảo các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
Như vậy, việc sử dụng tài sản có hiệu quả có nghĩa là với một số lượng tài sản nhất định đưa vào hoạt động SXKD sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất và làm cho tài sản của doanh nghiệp không ngừng gia tăng. Trên thực tế có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp nhưng phần lớn đều cho rằng hiệu quả sử dụng tài sản được thể hiện trên hai mặt đó là bảo toàn về mặt giá trị và phải đạt được những kết quả theo mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Là các chỉ tiêu liên quan đến những chỉ tiêu cấu thành nên TSNH của doanh nghiệp, phản ánh thực trạng tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp đó một thời điểm hoặc một giai đoạn.
Việc đo lường hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua đó, doanh nghiệp có những căn cứ để đánh giá quá trình quản trị tài sản ngắn hạn, từ đó đưa ra những biện pháp hoàn thiện công tác quản trị, nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH.
1.2.2.1. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi
Tỷ suất sinh lợi TSNH:
Tỷ suất sinh lợi TSNH
=
Lợi nhuận sau thuế
TSNH bình quân trong kì
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản ngắn hạn có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt, hệ số sinh lợi TSNH càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
Tỷ suất kinh lợi kinh tế của TSNH:
Tỷ suất sinh lợi kinh tế của TSNH
=
EBIT
TSNH bình quân trong kì
Trong đó EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn không tính đến ảnh hưởng của nguồn gốc vốn kinh doanh và thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu hoạt động
– Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn
Tốc độ luân chuyển TSNH phản ánh tình hình của doanh nghiệp trong việc tổ chức quản lý và sử dụng TSNH. Doanh nghiệp có tốc độ luân chuyển TSNH lớn được đánh giá cao trong hiệu quả tổ chức SX và kinh doanh.
Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn thường được đánh giá qua hai chỉ tiêu sau: Số vòng luân chuyển TSNH và số ngày luân chuyển TSNH.
Số vòng luân chuyển TSNH phản ánh trong 1 kỳ kinh doanh TSNH luân chuyển được mấy lần. Nói cách khác, sau 1 kỳ kinh doanh một đồng TSNH đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Số vòng luân chuyển càng cao cho thấy doanh thu thuần tạo ra càng nhiều, đây là một trong những tiền đề góp phần nâng cao lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Số vòng luân chuyển TSNH
=
Doanh thu thuần
TSNH bình quân trong kỳ
Số ngày luân chuyển tài sản ngắn hạn là số ngày cần thiết để tài sản ngắn hạn luân chuyển được 1 lần.
Số ngày luân chuyển TSNH
=
Số ngày trong kì báo cáo
Số vòng luân chuyển TSNH
– Tốc độ thu hồi các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn thể hiện khẩu vị rủi ro cũng như sự linh hoạt trong quản lý danh mục đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chấp nhận rủi ro sẽ đầu tư vào những hình thức có khả năng sinh lời lớn, ngược lại sẽ đầu tư vào các khoản đầu tư có thu nhập cố định có đặc trưng là khả năng sinh lời và thời gian đáo hạn là cố định.
Vòng quay các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn được đưa ra nhằm đánh giá khả năng hoạt động của loại tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao trong việc tạo ra doanh thu. Nó cho biết nắm giữ mỗi một đồng đầu tư tài chính ngắn hạn thì sẽ tạo được bao nhiêu đồng doanh thu.
Số vòng quay ĐTTC ngắn hạn
=
Doanh thu thuần
Đầu tư tài chính ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu này càng cao, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp trong kỳ càng lớn. Để nâng cao chỉ tiêu này, một mặt phải tăng quy mô về doanh thu, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý cơ cấu vốn của hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp.
Số ngày luân chuyển các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là số ngày cần thiết để các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn luân chuyển được 1 lần.
Số ngày luân chuyển ĐTTC ngắn hạn
=
Số ngày trong kì báo cáo
Số vòng quay ĐTTC ngắn hạn
– Tốc độ thu hồi các khoản phải thu
Các khoản phải thu được quản trị thông qua chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp. Chính sách này kích thích khách hàng mua hàng, tăng doanh thu và giảm tồn kho cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp bán chịu sẽ tạo được sự thuận tiện cho khách hàng, thu hút được lợi thế bán hàng về mình và quan trọng nhất là mở rộng được nhiều mối quan hệ khách hàng, lượng khách hàng sẽ tăng lên và đẩy doanh thu của doanh nghiệp cũng tăng theo.
Tuy nhiên, khi doanh nghiệp bán chịu thì chi phí bán hàng, chi phí thu nợ và khả năng mất vốn tăng lên. Nếu việc bán chịu và quản lý khoản phải thu ngoài tẩm kiểm soát thì không những không mang lợi ích mà còn gây ra tác hại cho doanh nghiệp.
Hệ số vòng quay các khoản phải thu
=
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Hệ số vòng quay các khoản phải thu là một trong những tỉ số tài chính để đánh giá hiệu quả của hoạt động của doanh nghiệp trong công tác quản trị khoản phải thu. Nó cho biết các khoản phải thu phải quay bao nhiêu vòng trong một kỳ báo cáo nhất định để đạt được doanh thu trong kỳ đó. Từ kết quả đó, doanh nghiệp có biện pháp thu hồi công nợ nhanh chóng. Nếu vòng quay càng lớn là doanh nghiệp tổ chức thu nợ tốt và ngược lại.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Số ngày trong kỳ báo cáo
Hệ số vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh khoảng thời gian chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt.
– Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho càng lớn thể tình hình bán ra là tốt và hàng hóa hỏng hoặc kém phẩm chất là ít hoặc không có.
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Chu kì lưu kho
=
Số ngày trong kỳ báo cáo
Vòng quay hàng tồn kho
Nếu thời gian lưu kho càng ngắn, hay nói cách khác là tốc độ luân chuyển hàng tồn kho nhanh sẽ đẩy nhanh tốc độ thu hồi vốn, do đó làm tăng khả năng thanh toán cho DN. Chỉ số này thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp, nếu như chỉ số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều; tuy nhiên chỉ tiêu này cũng không nên quá cao vì như vậy cũng phản ánh lượng hàng dự trữ trong kho của doanh nghiệp không nhiều, nếu nhu nhu cầu thị trường tăng đột biến thì khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị mất thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh cũng tương đối lớn. Do đó, chính sách quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp là rất quan trọng để vừa tạo được vị thế cạnh tranh với đối thủ, vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Các chỉ tiêu trên đây tuy không phản ánh trực tiếp hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nhưng nó cũng là những công cụ mà người quản lý tài chính cần xem xét để điều chỉnh việc sử dụng tài sản ngắn hạn sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
– Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (hệ số khả năng thanh toán hiện thời): là mối quan hệ giữa TSNH với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ số này phản ánh một đồng nợ được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng TSNH.
Đây là chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn cho DN.
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
– Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà không phụ thuộc bởi hàng tồn kho.
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, các nhà quản trị cũng cần biết được hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp đó. Hệ số này còn được gọi là tỷ lệ thanh toán nhanh… . Trong tỷ số này, hàng tồn kho sẽ bị loại bỏ, bởi lẽ trong tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Tỷ số thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà không cần thực hiện thanh lý gấp hàng tồn kho.
Hệ số thanh toán nhanh
=
Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Nhìn chung hai chỉ số trên >1 thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản ngắn hạn chịu tác động của nhiều yếu tố. Vì vậy, để đạt được kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn nói riêng, các doanh nghiệp cần nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tài sản ngắn hạn. Trong khuôn khổ bài luận văn, tác giả muốn để cập đến các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến ngành nghề kinh doanh xăng dầu:
1.3.1. Nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế: nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh như: chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, hệ thống tài chính tiền tệ, tình hình lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các chính sách tài chính tín dụng của nhà nước.
Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khóa của chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ khó có thể cao được do sự mất giá của đồng tiền. Ngoài ra, chính sách tài chính tiền tệ cũng tác động lớn đến hoạt động huy động vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn của nền kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp những thuận lợi đồng thời cả những khó khăn.
Do đó, doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự báo những thay đổi đó để có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ những cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực từ sự thay đổi của môi trường kinh tế.
Môi trường pháp lý: Là hệ thống các chủ trương, chính sách, hệ thống pháp luật do Nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp được lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo pháp luật, Nhà nước tạo môi trường, hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thị trường kinh doanh xăng dầu trực tiếp chịu sự điều tiết từ Chính phủ. Nhà nước sử dụng các chính sách như: Chính sách giá, chính sách thuế, chính sách dự trữ lưu thông, chính sách chất lượng, chính sách cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chính sách xuất nhập khẩu,…để quản lý doanh nghiệp kinh doanh. Tất cả những chính sách trên đều ảnh hưởng nhất định đến chính sách xây dựng và quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Vì vậy khi xây dựng kế hoạch kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ các chính sách của Nhà nước, trên cơ sở đó để có kế hoạch sử dụng TSNH một cách có hiệu quả nhất.
Môi trường khoa học công nghệ: là sự tác động của các nhân tố: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các phát minh sáng chế… Hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đều phụ thuộc vào nhân tố này. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ tạo ra nhiều loại máy móc hiện đại, cho năng suất cao, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, nó sẽ khiến các máy móc hiện có của doanh nghiệp trở nên lạc hậu. Vì vậy bất kỳ hoạt động trong ngành nghề kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng phải thường xuyên chú trọng đầu tư, tiếp cận nhanh với công nghệ mới. Trong bối cảnh nền công nghệ thông tin đang bùng nổ như hiện nay và nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì khoa học công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Những rủi ro bất thường: Trong quá trình hoạt động SXKD, doanh nghiệp có thể gặp phải những rủi ro bất thường như: nợ khó đòi, rủi ro về thiên nhiên như bão lụt, động đất, hỏa hoạn, dịch bệnh… có thể làm thiệt hại tài sản của doanh nghiệp, dẫn đến việc hao hụt tài sản, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Là toàn bộ các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó và sử dụng để khai thác các cơ hội kinh doanh. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bao gồm:
Trình độ cuả cán bộ quản lý và tay nghề người lao động:
Trình độ cán bộ quản lý: Thể hiện ở trình độ chuyên môn nhất định, khả năng tổ chức, quản lý và ra quyết định. Nếu cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, khả năng tổ chức, quản lý tốt đồng thời đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình của doanh nghiệp và tình hình thị trường thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Nếu khả năng tổ chức, quản lý kém, quyết định sai lầm thì tài sản sẽ không được sử dụng một cách hiệu quả dẫn đến doanh nghiệp có thể thua lỗ, thậm chí phá sản. Như vậy, trình độ cán bộ quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu đối với bộ phận này là rất cao, họ cần có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời cho doanh nghiệp.
Trình độ tay nghề người lao động: Bộ phận công nhân là bộ phận trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, là nhân tố trực tiếp sử dung tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Đối với công nhân sản xuất có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo, tự chủ trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tài sản trong quá trình vận hành thì tài sản sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn đồng thời sẽ tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, hạ giá thành góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu trình độ tay nghề người công nhân thấp, không nắm bắt được các thao tác kỹ thuật, ý thức bảo quản máy móc, tài sản, công cụ dụng cụ, hàng hóa kém sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu, giảm tuổi thọ của máy móc làm tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm. Điều đó có thể làm giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn giảm.