SKKN Các biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 6 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học (Bộ sách cánh diều)

4.5/5

Giá:

100.000 đ
Cấp học: THCS
Môn: Lịch sử
Lớp: 6
Bộ sách: Cánh diều
Lượt xem: 527
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
35
Lượt tải:

8

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Các biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 6 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học (Bộ sách cánh diều)“triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Biện pháp 1: Phát huy tính tích cực của học sinh qua các phương pháp dạy học Lịch sử.

Biện pháp 2: Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh.

Biện pháp 3: Đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp hoạt động theo các hình thức.

Biện pháp 4: Khai thác vốn kiến thức đã có của học sinh.

Biện pháp 5: Sử dụng thơ ca, câu đố vào bài giảng.

Mô tả sản phẩm

I. PHẦN MỞ ĐẦU

 

I.1. Lý do chọn đề tài

THCS là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.

Việc dạy học lịch sử nói riêng cũng như dạy học các môn học khác vấn đề là phải giúp người học lĩnh hội được kiến thức, giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh. Trong những năm qua việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học đã khẳng định rõ hơn vai trò của người học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy và học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Sinh thời Bác Hồ đã nói:

“Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Vì đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử của nước nhà và đó cũng chính là đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Nhưng thực tế việc dạy và học môn Lịch sử chưa đạt hiệu quả như mong muốn bởi còn gặp một số khó khăn. Từ đó trong những năm gần đây qua thực tế ở nhà trường tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này. Đặc biệt đây cũng là tiền đề vững chắc để các em học lên các cấp học trên. Vì thế trong quá trình công tác và tình hình thực tế, tôi nhận thấy ngay từ cấp THCS chúng ta phải gây hứng thú học môn Lịch sử mà đi đến chủ động, sáng tạo yêu thích học môn học này.

Lịch sử có vai trò quan trọng như vậy, nhưng thực tế hiện nay một số học sinh không có hứng thú khi học môn học này, dẫn đến chất lượng giờ lịch sử còn hạn chế. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nhân cách cho các em học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm của bản thân, tôi mạnh dạn chọn môn Lịch sử để nghiên cứu. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài: “Các biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 6 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học” theo bộ sách Cánh diều. Nhằm làm cho việc học tập của học sinh trở nên lý thú, gắn bó với thực tiễn. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của học sinh.

I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài.

Mục tiêu:

-Nghiên cứu, áp dụng tìm ra một số biện pháp nhằm gây hứng thú cũng như phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lượng trong dạy học môn Lịch sử ở bậc THCS.

-Lịch sử lớp 6 được dạy ở trường THCS nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự vật, hiện tượng, thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen: Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. Yêu thiên nhiên, con người, đất nước. Có ý thức hành động và bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá.

Nhiệm vụ:

-Xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.

-Điều tra và khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh.

-Đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Lịch sử.

I.3. Đối tượng nghiên cứu.

-Đề tài nghiên cứu trong phạm vi học sinh khối lớp 6 Trường THCS …………. Năm học …………..

-Nghiên cứu các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở THCS.

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.

-Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc tìm tòi và áp dụng thực nghiệm đưa ra một số biện pháp từ kinh nghiệm giảng dạy qua nhiều năm công tác để giúp học sinh THCS nói chung cũng như học sinh Trường THCS ………… nói riêng học tốt môn Lịch sử.

I.5. Phương pháp nghiên cứu.

-Phương pháp trò chuyện với giáo viên và học sinh

-Phương pháp thu thập và xử lí số liệu

-Phương pháp thực nghiệm

-Phương pháp điều tra, khảo sát.

II. PHẦN NỘI DUNG

II.1. Cơ sở lí luận.

Học sinh THCS hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động thích tò mò, khám phá, làm việc độc lập theo hướng tích cực của mình. Nhưng khả năng nhớ lâu, xâu chuỗi, hệ thống kiến thức của các em còn mang tính hình thức. Theo thống kê hàng năm của bộ giáo dục và đào tạo thì chất lượng bài thi môn Lịch sử ở các cấp còn thấp. Các em thường nhầm lẫn kiến thức Lịch sử với những nội dung cơ bản nhất. Vậy câu hỏi đặt ra nguyên nhân là do đâu ? Có lẽ vấn đề này chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho một cấp học nào nhưng thực tế điều đáng nói là những kiến thức cơ bản các em cũng không nắm được. Môn Lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự hào với những truyền thống, với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển của tương lai. Song làm thế nào để các em làm được điều đó là vấn đề cốt lõi mà bản thân mỗi giáo viên cần quan tâm.

Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước xác định, hoàn chỉnh, bổ sung qua các thời kì, chúng ta cần chú trọng đến quan điểm là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Là người có trình độ cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt … Con người phải được rèn luyện qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Đây cũng là vấn đề nhức nhối cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng.

II.2. Thực trạng.

Chương trình lịch sử lớp 6 tập trung cung cấp cho các em về một số sự kiện, hiện tượng lịch sử và một số nhân vật lịch sử theo từng mốc giai đoạn thời gian: từ đầu Công nguyên đến trước thế kỷ X: Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu giành độc lập, tự chủ của dân tộc; đầu thế kỷ X: những bước ngoặt lịch sử

Tuổi trẻ bây giờ được sinh ra và lớn lên trong thời bình, dường như các em chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Ở trường THCS các em chỉ dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của môn Lịch sử ? Đó là nỗi lo âu, trăn trở của mỗi chúng ta khi giảng dạy môn học này.

Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử. Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành như câu nói của Bác: “ Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Thực tế hiện nay một số giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng đáng cho tiết dạy lịch sử, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ học lịch sử còn hạn chế.

a.Thuận lợi – khó khăn.

Thuận lợi:

Trường THCS ………… đóng trên địa bàn trung tâm xã …………, đường sá đi lại tương đối thuận tiện, 100% học sinh là con em tại địa phương, là một xã tương đối lớn. Số lượng trẻ em tương đối đông là nguồn nhân lực dồi dào cho lực lượng lao động trong tương lai nhưng đồng thời cũng đặt ra những thử thách về giáo dục, chăm sóc và tạo điều kiện thuận lợi phát triển cho trẻ. Sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn xã nhà nói riêng trong những năm qua đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực của hầu hết cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Các chủ trương, đường lối về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Đảng và nhà nước được cụ thể hóa. Điều kiện sức khỏe và thể chất trẻ em ngày càng được cải thiện và nâng cao. Số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước được quan tâm. Bên cạnh đó nhà trường cũng đã chú trọng đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy học như: Tranh ảnh, máy chiếu, máy vi tính …Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp.

Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, của các đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là sự nổ lực của bản thân trong quá trình nghiên cứu.

Khó khăn:

Học sinh trường THCS ………… chủ yếu là con em dân tộc thiểu số, tầm nhận thức còn hạn chế, gia đình học sinh chủ yếu làm nghề nông, đời sống nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, số học sinh thuộc diện hộ nghèo chiếm khá đông, sự quan tâm của phụ huynh còn sơ sài, chưa thiết thực. Thiếu sân chơi bổ ích cho trẻ, trình độ dân trí còn thấp điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh.

Đồ dùng dạy học tuy được cải thiện song vẫn còn thiếu như băng hình đặc biệt là tư liệu Lịch sử còn hạn chế. Môi trường học Lịch sử còn nghèo nàn làm cản trở cho việc lôi cuốn học sinh trong việc yêu thích môn Lịch sử. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Trong học tập các em chủ yếu dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt.

Từ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú cho học sinh và đặc biệt là tư duy trong học tập của các em bị hạn chế.

b. Thành công – hạn chế:

Thành công:

Qua việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, nội dung bài học. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, nắm kiến thức lâu hơn, các em đã tích cực vân dụng được các kiến thức vào bài học, thực hành. Các em hứng thú và thích học môn Lịch sử hơn trong học tập.

Các biện pháp, giải pháp mà tôi áp dụng cho đề tài đã qua thực nghiệm và khảo sát nên mang lại hiệu quả của giáo dục khá cao. Và được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, giáo viên nhà trường về những đề xuất của đề tài.

Hạn chế:

Xuất phát từ quy luật nhận thức của con người phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh…

Song bên cạnh đó do học sinh là con em nông thôn nên trong quá trình thực hiện ban đầu có phần hạn chế vì đồ dùng dạy học chưa phong phú. Đa số các em chưa yêu thích môn học này.

Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy về trình độ nhận thức của học sinh hiện nay chưa cao, các em tuy nhạy bén với cái mới nhưng các em chóng quên, nếu không thường xuyên được củng cố, luyện tập thì hiệu quả đạt không cao trong học tập. Thời gian không chỉ dành riêng cho môn Lịch sử, trong quá trình nghe giảng học sinh chưa biết chọn lọc, kết hợp với ghi chép chi tiết những điều cần nhớ, tốc độ viết còn chậm, khả năng tiếp thu và thâu tóm vấn đề còn hạn chế.

c. Mặt mạnh – mặt yếu

Mặt mạnh:

Đa số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn và có tay nghề cao, vẫn có nhiều giờ dạy giỏi, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Mặc dù phần lớn giáo viên phải sống và giảng dạy trong điều kiện còn khó khăn, nhưng nét nổi bật là đều có tinh thần trách nhiệm cao, bám lớp, bám trường.

Học sinh THCS hiện nay có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, óc tưởng tượng khá phong phú đó là tiền đề tốt cho việc phát triển nâng cao tư duy trong học tập.

Bản thân tôi là giáo viên có thời gian công tác giảng dạy đã lâu năm, nên kinh nghiệm giảng dạy khá phong phú, vì thế việc tìm ra biện pháp để phục vụ cho đề tài là tương đối thuận lợi. Các biện pháp mà tôi đưa ra đã được thực nghiệm tại trường THCS ………… mang lại hiệu quả khá cao. Không những thế lại nhiệt tình trong công tác, có chí cầu tiến thích khám phá, tìm hiểu. Bên cạnh đó học sinh rất thích cái mới, cái lạ và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. Chuyên môn tổ chức nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra nhà trường cũng như Liên đội thường tổ chức một số cuộc thi như: Nhà sử học nhỏ tuổi, em yêu Tổ quốc Việt Nam… Đã mang lại hiệu quả cao trong công tác dạy học Lịch sử, không những thế qua những hình ảnh trực quan như tên đường, tên trường, tên chi đội .. cũng gắn liền với nhân vật lịch sử, vì thế thông qua đó các em đã hiểu được phần nào về lịch sử nước nhà, những vấn đề đó cũng góp phần không nhỏ đến sự thành công của đề tài.

Mặt yếu:

Trong quá trình dạy học, một số giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn theo kiểu truyền thống, giáo viên thiên về giảng giải, truyền thụ, thậm chí nhồi nhét kiến thức, học sinh lắng nghe một cách thụ động, ghi nhớ máy móc. Chính vì thế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt…làm thế nào cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, với tâm sinh lí lứa tuổi là điều quan trọng. Nhưng nhìn chung chưa mang lại hiệu quả cao do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể học sinh cũng như phụ huynh chưa quan tâm đến nhiều môn học này.

Để gây hứng thú học tập và giúp học sinh có khả năng nhớ lâu, hệ thống kiến thức tốt giáo viên cần đầu tư và đưa công nghệ thông tin (bài giảng điện tử) vào trong dạy học thì hiệu quả đạt cao hơn.

d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài:

Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên người ta có thể trực tiếp quan sát chúng trong thiên nhiên hoặc trong phòng thí nghiệm nhưng đối với học sinh vùng nông thôn như trường tôi thì điều đó quá xa vời. Các em chủ yếu chỉ tái tạo Lịch sử qua lời kể của thầy cô giáo, qua tưởng tượng điều đó ảnh hưởng đến sự lĩnh hội kiến thức lịch sử bị hạn chế.

Phương pháp dạy học ít đổi mới của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu bài của học sinh. Học sinh chưa coi trọng môn lịch sử như Toán hay Tiếng Việt nên đầu tư cho môn học này còn ít.

Thực tế chất lượng học sinh trong lớp chưa thực sự đồng đều một số em còn xem nhẹ môn học này. Hơn nữa thời gian học tập các môn học với lượng kiến thức nhiều nên việc học Lịch sử đối với các em chưa thực sự chú trọng.

e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.

Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có khoảng hơn 60% học sinh hứng thú, thích học môn Lịch sử.

Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có: 18/29 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử. (chiếm 62%). 5/29 HS học vì yêu cầu của thầy cô,(chiếm 17%). 6/29 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, (chiếm 21%).

 

Năm học …

Sĩ số

Hứng thú

Tỷ lệ (%)

Bắt buộc

Tỷ lệ (%)

Chưa hứng thú

Tỷ lệ (%)

Khối 6

29

18

62

5

17

6

21

 

 

Như vậy qua tìm hiểu thực trạng chúng ta nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngại học Lịch sử nhưng theo tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng:

-Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự đổi mới. Trong hội giảng của trường hầu như giáo viên không tham gia hoặc đăng kí dạy môn Lịch sử.

-Trang thiết bị cũng như băng hình, tài liệu về sử học còn hạn chế. Giáo viên ít đầu tư làm đồ dùng cho môn học mà học sinh chủ yếu được học chay.

-Quan niệm về vị trí môn học của phụ huynh và học sinh còn sai lệch.

-Nhà trường chưa tổ chức nhiều các hội thi hay hoạt động ngoài giờ lên lớp có kiến thức sử học.

-Kiến thức về sử học của một số giáo viên còn hạn chế nên khi lên lớp không mở rộng cho học sinh thêm kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa.

Vậy để giúp học sinh học tốt môn Lịch sử đòi hỏi trước hết giáo viên cần có kiến thức Lịch sử chuyên sâu. Thiết kế bài giảng sinh động và mới mẽ trong từng tiết dạy, sử dụng giáo án điện tử vào tiết dạy, luôn sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng, trong tiết dạy phải biết phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả. Ngoài ra, tôi luôn yêu cầu học sinh phối hợp giữa lí thuyết và thực hành. Trong dạy học môn học này, tôi sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức dạy học, trong đó chú trọng phát huy năng lực chủ động sáng tạo nơi các em, ví dụ: Ở bài 12 “Nước Văn Lang” (trang 57 Lịch sử 6 bộ sách Cánh diều), nội dung của bài học này khá thú vị với các em, tôi giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tư liệu về đời sống văn hóa, xã hội của nhà nước Văn Lang, trao đổi trình bày trong nhóm và trước lớp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. Khi tiến hành hoạt động dạy học, tôi còn dựa trên trình độ thực tế của lớp mà lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhất. Trong mỗi bài dạy tôi luôn xây dựng một hệ thống câu hỏi đi từ dễ đến khó. Qua đó, giúp tôi lựa chọn phương pháp đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi…theo hình thức cá nhân, để giải quyết vấn đề được đặt ra.

II.3. Giải pháp, biện pháp

Trước hết tôi luôn xác định muốn giúp các em yêu thích học môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích sử, phải tự trang bị cho mình thật nhiều kiến thức về lịch sử. Bởi vậy tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, nắm vững các kiến thức mục tiêu cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo một hệ thống kiến thức liên tục, có sự liên hệ liền mạch: các thời kì, các sự kiện tiêu biểu, các nhân vật lịch sử tiêu biểu.

Ví dụ: Khi dạy bài 15 “Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu giành độc lập, tự chủ (từ đầu Công nguyên đến trước thế kỉ X)” (trang 73 Lịch sử 6 bộ sách Cánh Diều) giới thiệu về nhân vật lịch sử, cụ thể là tấm gương chiến đấu của các nữ tướng Hai Bà Trưng, Bà Triệu tôi thể hiện giọng chậm rãi, sâu lắng, nhấn giọng khi nhắc đến tình huống hi sinh dũng cảm của các nữ tướng. Đối với các sự kiện lịch sử, tôi lại trình bày với giọng nói rõ ràng, mang tính chất tường thuật, lưu ý những mốc thời gian gắn với sự kiện diễn ra tại thời điểm nào, kết hợp phương tiện trực quan để làm rõ ý cần minh hoạ. Trong từng tiết dạy tôi thường dành ít phút thời gian để có những cuộc trao đổi nhỏ với các em, từ đó sẽ giúp bản thân định hướng thêm trong bài dạy của mình. Sau mỗi tiết tôi thường đặt ra các câu hỏi dạng như: Sau bài học hôm nay, em có suy nghĩ gì ? Bài học hôm nay, em tâm đắc nhất điều gì ? Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào ?

Ngoài ra, tôi luôn quan tâm phát huy vai trò chủ động trong hoạt động dạy học của học sinh qua việc yêu cầu các em sưu tầm những tư liệu, thu thập thông tin liên quan đến môn học. Khai thác môi trường học tập của các em đối với môn lịch sử quả thật là rộng lớn, nơi các em ở, vui chơi học tập, một cái tên đường, một áp phích tuyên truyền, một di vật, một địa danh lịch sử cũng đủ làm gợi ý tò mò của các em. Chính vì vậy các em cần có thói quen quan sát cuộc sống xung quang mình. Vì đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với môn lịch sử nói riêng, mà của tất cả các môn học khác. Bởi vậy, tôi luôn giúp các em hình thành thói quen sưu tầm tư liệu lịch sử thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp qua từng tiết dạy, chủ điểm tháng tuần.

Xây dựng lớp học thân thiện là điều cần thiết và trong đó tôi không thể bỏ qua môn lịch sử. Tại góc học tập của lớp tôi luôn dành một phần nhỏ để các em trưng bày những tư liệu lịch sử mà các em đã sưu tầm được. Trong các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi luôn cùng đồng nghiệp chuẩn bị chu đáo nội dung và trong những nội dung ấy không thể thiếu nội tìm hiểu về các nhân vật hay sự kiện lịch sử.

 

a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.

Ngay từ bậc THCS ở lớp 6, các em đã được học Lịch sử qua một phân môn rõ rệt mà không lồng ghép chúng với bất cứ phân môn nào. Có chăng, đó là sự bổ sung thêm kiến thức Lịch sử cho các em từ các phân môn khác ( ví dụ: phân môn kể chuyện, đạo đức, tập làm văn, tập đọc….). Điều này càng cho chúng ta thấy, việc dạy Lịch sử trong nhà trường là điều cần thiết và quan trọng không thể lơ là. Vậy làm thế nào để các em yêu thích môn Lịch sử, các em tự tìm đến với Lịch sử của dân tộc. Chính vì vậy trong đề tài này tôi nghiên cứu và tìm ra các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử. Và đây cũng chính là niềm trăn trở của tất cả chúng ta, những người làm công tác “ trồng người”.

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.

Như chúng ta đã biết đổi mới phương pháp dạy học là tạo ra quá trình chuyển từ dạy học truyền thụ một chiều, dựa vào trí nhớ và bắt chước, thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép sang việc dạy học nhằm phát triển nhân cách toàn diện trong đó điểm nhấn mạnh là năng lực sáng tạo tư duy và hành động của học sinh. Người dạy phải biết “nhập” các phương pháp dạy học hoàn toàn hiện đại, mới lạ vào nhà trường, khai thác những ưu điểm vốn có của các phương pháp dạy học hiện hành đồng thời từng bước tiến hành các phương pháp dạy học hiện đại, sử dụng phương pháp đồ dùng dạy học hiện đại một cách phù hợp, có hiệu quả. Muốn đổi mới phương pháp dạy học và cách thức hoạt động học tập của học sinh, phải đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và từng bước đổi mới môi trường dạy học, chuyển từ môi trường dạy học thô sơ, đơn điệu, cứng nhắc … sang môi trường dạy học giàu sáng tạo, tương tác thân thiện, gắn bó với cuộc sống, giàu công nghệ.

Để giúp học sinh học tốt môn lịch sử nhằm đưa chất lượng giáo dục có chất lượng và hiệu quả ngày một nâng cao, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:

Biện pháp 1: Phát huy tính tích cực của học sinh qua các phương pháp dạy học Lịch sử.

Thứ nhất: Vì trong việc sử dụng phương pháp dạy học không có phương pháp nào là vạn năng. Trong thực tế cũng như trong dạy học không có giáo viên nào lại không biết kết hợp đồng thời các phương pháp. Tường thuật chỉ có thể có hiệu quả khi nó được kết hợp giữa các phương pháp nhưng trong đó giáo viên phải biết lựa chọn một phương pháp chính sẽ đem lại hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi mạnh dạn lựa chọn một số phương pháp tuy nhiên đây chưa hẳn là những phương pháp tốt. Muốn hiệu quả thì phải được vận dụng vào cụ thể từng bài, sự thiết kế, kết hợp chặt chẽ với các phương pháp khác trong từng bài giảng.

Thứ hai: Bộ môn Lịch sử ở Trường THCS được giảng dạy với tư cách là môn khoa học mà đặc trưng cơ bản của nó là học sinh không trực tiếp quan sát. Sự kiện Lịch sử là cơ sở của nhận thức Lịch sử. Muốn học sinh nắm được các kiến thức phổ thông, cơ bản của Lịch sử thì trước hết phải cung cấp cho các em một hệ thống những sự kiện Lịch sử cơ bản. Sự kiện Lịch sử phải được học sinh thể hiện lại một cách sinh động, cụ thể có hình ảnh. Không khí giờ học phải được tạo ra chính sự sống động của sự kiện Lịch sử. Chính vì vậy, các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ học Lịch sử phải hết sức khôi phục lại bức tranh của quá khứ. Đương nhiên dạy học Lịch sử không chỉ dừng ở đó mà chúng ta phải biết định hướng giúp các em từng bước từ sự kiện Lịch sử mà khám phá bản chất của sự kiện, hiện tượng hay quá trình Lịch sử. Từ đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, bồi dưỡng truyền thống dân tộc.

Thứ ba: Cấu trúc giờ học phải nhẹ nhàng, gây được hứng thú, bất ngờ và hấp dẫn học sinh. Không nhất thiết vào đầu giờ học là phải kiểm tra bài cũ. Việc kiểm tra kiến thức cũ của học sinh được tiến hành ngay khi cung cấp kiến thức mới có liên quan. Việc củng cố kiến thức cho học sinh cũng vậy, không nhất thiết phải là cuối giờ học. Chính sự thay đổi các bước lên lớp đó sẽ tránh được sự nhàm chán, rập khuôn mà học sinh đã biết trước khi vào giờ học. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng khi có được phối hợp các biện pháp để phát triển tư duy cho học sinh, gây hứng thú trong học tập.

Thứ tư: Phải xuất phát từ đối tượng cụ thể từng lớp học, xem xét khả năng nhận thức của học sinh mà tìm ra biện pháp phát triển ở các em mặt nào đó của tư duy Lịch sử. Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ cái cụ thể. Tư duy Lịch sử bao giờ cũng nhiều nội dung, nhiều cung bậc khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là tư duy tái tạo, trí tưởng tượng khả năng phân tích, so sánh, trí nhớ, tư duy tổng hợp, tư duy lôgic… Mỗi kiến thức Lịch sử lại đòi hỏi một khả năng khác nhau của tư duy học sinh. Chính vì vậy ngoài việc sử dụng các biện pháp dạy học, người giáo viên cần phải phân loại được các sự kiện, hiện tượng Lịch sử, xem các kiến thức đó phát triển tư duy nào cho học sinh.

Thứ năm: Giúp học sinh định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập. Việc xác định mục tiêu của bài học: giúp học sinh khẳng định sau mỗi bài học, học sinh cần đạt được những gì về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Từ đó giúp giáo viên dễ dàng đánh giá được việc nắm kiến thức, kĩ năng qua từng bài dạy.

Để làm tốt điều này, trước hết giáo viên phải là người yêu thích môn Lịch Sử, tự trang bị cho mình một vốn kiến thức bên cạnh việc nghiên cứu kĩ sách giáo khoa và các tài liệu, thông tin khác, giáo viên cần xác định mục tiêu cơ bản truyền đạt, hệ thống kiến thức chặt chẽ, liền mạch, khi truyền thụ phải đảm bảo:

-Lời dẫn phải súc tích, giàu tính khái quát và hình ảnh.

-Phải đi sâu vào cái cốt lõi của bài học.

-Phải tạo ấn tượng, gợi trí tò mò cho học sinh.

-Phối hợp giữa lí thuyết và thực hành một cách linh hoạt, chú trọng phát huy năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh.

Ví dụ: Khi dạy bài 14 “Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và chuyển biến kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam thời Bắc thuộc” (trang 67 Lịch sử 6 bộ sách Cánh Diều). Giáo viên giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tranh ảnh, tư liệu về cảnh nhân dân ta bị đàn áp, bóc lột bởi chính quyền đô hộ. Hướng dẫn học sinh trình bày trong nhóm và trước lớp. Qua sự hướng dẫn của giáo viên, đặc biệt là khi hoạt động cần dựa vào tình hình thực tế của lớp để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên.

 

Biện pháp 2: Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh.

Về mặt lí luận, sử dụng sách giáo khoa như thế nào để dạy học Lịch sử đã được đề cập đến trong nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo. Song trong thực tế việc sử dụng sách giáo khoa của giáo viên còn chưa được thống nhất, chưa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh. Vậy nên sử dụng như thế nào cho có hiệu quả.

Chúng ta biết rằng sách giáo khoa là tài liệu viết cho học sinh. Nó cũng là cơ sở để giáo viên chuẩn bị bài giảng, xác định hệ thống kiến thức để dạy cho học sinh. Có thể phân ra 3 phương pháp sử dụng sách giáo khoa: Phương pháp sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng, phương pháp sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp, phương pháp sử dụng sách giáo khoa để học tập ở nhà của học sinh.

*Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng:

Trước khi soạn giáo án cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách giáo khoa, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung, tinh thần mà tác giả mong muốn ở học sinh về từng mặt kiến thức, thái độ, kĩ năng… Khi đã có cái nhìn toàn cục, khái quát, đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan đến kiến thức đó đối với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 3 đến 4 nội dung, có liên quan chặt chẽ với nhau. Song không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm. Mỗi bài cần xác định rõ phần đóng góp cụ thể về mặt nội dung, thái độ, kĩ năng, kĩ xảo có nghĩa là giáo viên cần xác định rõ cần cung cấp kiến thức gì, giáo dục tư tưởng tình cảm gì? kĩ năng nào cần rèn luyện cho học sinh.

*Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình giảng dạy trên lớp.

Trong quá trình trên lớp học sinh vừa nghe giảng, vừa ghi chép vừa theo dõi sách giáo khoa. Chúng ta không nên quan niệm rằng chỉ khi học sinh phát biểu trả lời câu hỏi của giáo viên thì mới gọi là phát triển tư duy. Trong giờ học, học sinh chăm chú theo dõi bài giảng, tái tạo lại hình ảnh của sự kiện lịch sử biết ghi chép đó là tư duy của các em phát triển. Nói như vậy là không có nghĩa là học sinh chỉ nghe giảng mà ghi chép. Tính tích cực hoạt động học tập của học sinh sẽ được biểu hiện qua nét mặt ánh mắt các thao tác của giác quan và bằng sự nhạy cảm của giáo viên qua quan sát lớp học, theo dõi thái độ của học sinh, người giáo viên sẽ phát hiện được học sinh có tích cực hoạt động tư duy hay không từ đó mà điều chỉnh các thao tác sư phạm cho phù hợp.

Vì học sinh thường theo dõi lời giảng của giáo viên rồi đối chiếu so sánh với sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ mà nên diễn đạt bằng lời của mình.

Ví dụ: Khi dạy bài 12 “Nước Văn Lang” (trang 57 Lịch sử 6 bộ sách Cánh Diều) có thể sử dụng đoạn này để miêu tả và kể cho học sinh thấy được bối cảnh ra đời của nhà nước Văn Lang “Vào khoảng thế kỉ VII TCN, cư dân Lạc Việt đã sống quây quần ở lưu vực các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Cả,… đời sống sản xuất có nhiều chuyển biến, xã hội có sự phân hoá giàu nghèo. Nhu cầu làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm đã thúc đẩy sự ra đời của nước Văn Lang, địa bàn chủ yếu ở lưu vực các con sông thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương (Vua Hùng), đóng đô ở

Phong Châu (thuộc Phú Thọ ngày nay).”

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)