SKKN Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu

Giá:
50.000 đ
Môn: Tiếng việt
Lớp: 2
Bộ sách:
Lượt xem: 1389
Lượt tải: 18
Số trang: 24
Tác giả: Lê Thị Mỹ Dung
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Hữu Huân
Năm viết: 2019-2020
Số trang: 24
Tác giả: Lê Thị Mỹ Dung
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Hữu Huân
Năm viết: 2019-2020

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Biện pháp 1: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ
Biện pháp 3: Vận dụng hợp lý và linh hoạt các hình thức thi đua, khen thưởng nhằm khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học theo tinh thần hợp nhất giữa Thông tư 22 và Thông tư 30.
Biện pháp 4: Sử dụng đồ dùng trực quan để hệ thống và làm giàu vốn từ cho học sinh
Biện pháp 5: Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho học sinh.

Mô tả sản phẩm

1. Mở đầu
1.1 Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học sinh một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn từ tiếng Việt. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng như trong giao tiếp. Ngoài ra, vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chưa chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm các từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo tính thường trực của từ nhằm nâng cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh khi học các môn học nói riêng và trong cuộc sống nói chung. .
Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học sinh lớp 2 (là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ chút nào. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa chú trọng việc làm giàu vốn từ cho học sinh. Mặt khác, một số giáo viên chưa có sự sáng tạo về phương pháp dạy học luyện từ và câu cũng như là vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học hiện đại để làm giàu vốn từ cho các em. Còn về phía học sinh, vốn từ của các em còn rất ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều làm giảm khả năng tìm từ đúng, đặt câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói. Dẫn đến các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học vào thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh lớp 2 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và câu ở lớp 2 chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành kiến thức cho các em. Để làm giàu vốn từ cho các em như thế nào cho có hiệu quả? Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn, nghiên cứu và viết giải pháp hữu ích “ Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu” này.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng chính:
Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh
Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
– Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp

2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn ngôn ngữ của các em càng phong phú; việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp.
Thông qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của nhân tố từ ngữ trong việc sử dụng tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 còn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ. Từ đó, học sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen dùng từ, nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học tập, giao tiếp và thích học Tiếng Việt. Do đó, người giáo viên dạy lớp 2 (hay dạy bậc Tiểu học) cần phải hội đủ các yếu tố như: Có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung cũng như mục tiêu của từng bài dạy; có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, về ý đồ của sách giáo khoa và về cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện ở sách giáo khoa; có năng lực giảng dạy nhất định, biết xử lý và linh hoạt sáng tạo trong quá trình dạy – học. Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành công vốn từ trong học tập và giao tiếp.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thuận lợi:
– Nhà trường:
+ Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Luyện Từ & Câu
ở lớp 2 đã có sẵn ở thư viên: Tranh các chim, loài cá, thú…
– Học sinh:
+ Các em học sinh có đủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.
+ Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình.
b. Khó khăn:
– Giáo viên:
+ Phân môn Luyện Từ & Câu là phân môn mà học sinh lớp 2 vừa được làm quen, nên giáo viên gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với các em.
+ Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai.
+ Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn nhiều lúng túng.
– Học sinh:
+ Quan sát học sinh khi học phân môn Luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ hoặc không tìm được từ, chỉ khi cô giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu.
+ Qua tiết học phân môn Tập làm văn, tôi thường quan sát các em trong việc trả lời câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3 – 5 câu. Tôi thấy các em đa số chưa biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn số học sinh trong lớp biết dùng một số mẫu câu đơn giản.

 

Đoạn văn kể về ông (hoặc bà) của em.

+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học Luyện từ và câu.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của lớp 2A (lớp thực nghiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng)

 

Lớp
Tổng số HS
HTT
HT
CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A
34
5
14,5%
15
44,9 %
14
40,6%
2B
34
6
17,4%
16
52,2%
12
34,8%

Từ thực trạng trên tôi thấy nếu không có biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh thì chất lượng dạy học môn Tiếng Việt sẽ không cao. Trong năm học trước, khi đánh giá chất lượng bài thi các giáo viên đều có chung nhận định: Vốn từ của học sinh đang còn nghèo nàn, nhiều em tìm từ không đúng yêu cầu và có rất nhiều em không tìm được từ. Những hạn chế trên một phần là do giáo viên chưa chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong quá trình dạy giáo viên ít tạo điều kiện cho học sinh được hoạt động nhiều với từ nên khả năng thường trực từ ở học sinh và sử dụng khi cần thiết chưa cao. Có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung cả lớp, có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức trò chơi học tập tập trung đối tượng học sinh năng khiều. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân loại đối tượng học sinh để dạy học cho phù hợp.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và vận dụng: “Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu”
2.3 Một số biện pháp thực hiện.

Biện pháp 1: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi, thảo luận, chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy rất ít giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong quá trình dạy học làm giàu vốn từ đặc biệt là trong nhiệm vụ mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp cá nhân làm việc độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài tập mở rộng vốn từ. Số lượng từ ngữ học sinh nắm được trong giờ học không cao và không bền vững. Khi huy động vốn từ theo chủ đề, mỗi học sinh chỉ huy động được khoảng 1, 2 từ, nhiều nhất là 4, 5 từ. Thậm chí có học sinh không huy động được một từ ngữ nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên ít vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào trong giờ học, không tạo được điều kiện để học sinh có thể hoạt động nhiều hơn với từ, lặp đi, lặp lại các thao tác với từ để có thể nhớ từ một cách bền vững. Hơn nữa, khả năng giao tiếp của học sinh hiện nay còn yếu, học sinh diễn đạt chưa rõ ràng, mạch lạc vì trong quá trình học, học sinh không được thao tác nhiều với từ. Vì thế, trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài dạy đạt hiệu quả, giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị ở nhà
Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập giải nghĩa từ đối với những từ học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức của lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu của bài tập (đối với học sinh yếu, kém, trung bình) tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được hoạt động hết khả năng của mình.
Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh ghi kết quả theo thảo luận nhóm…
Bước 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
GV chia nhóm học sinh
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia nhóm theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ nắm vốn từ của học sinh…. Mỗi cách chia nhóm đều có ưu và nhược điểm nhất định, khi lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để tránh nhàm chán cho học sinh.
Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập (hoặc phiếu giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 1, Tuần 4 – TV2, tập 1 – trang 35, Mở rộng vốn từ: Từ chỉ sự vật, GV sử dụng phiếu thảo luận:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói các từ theo mẫu trong bảng sau rồi ghi vào bảng trong thời gian 2 phút:

Chỉ người
Chỉ đồ vật
Chỉ con vật
Chỉ cây cối
M: học sinh
………….
M: ghế
…………..
M: Chim sẻ
…………..
M: Xoài
…………..

 

Ví dụ 2: Ở bài tập 1, Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ, Tuần 30, TV2 – Tập 2 – Trang 104, ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, trong thời gian 2 phút, tìm các từ:
a. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ………………………..
.……………………………………………………………………………
b. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ………………………..
……………………………………………………………………………
– Học sinh thảo luận nhóm
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo viên quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm đều thảo luận sôi nổi, hiệu quả.
– Các nhóm báo cáo kết quả.
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các nhóm khác nhận xét, bổ xung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
– Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần nhớ sau khi thảo luận nhóm và tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm, những cá nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ năng hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh được học từ bạn và tất cả các em đều được tham gia hoạt động giao tiếp. Tôi đã vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm giàu vốn từ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.

 

Thảo luận nhóm 4, bài: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ.
TV2 – Tập 2, trang 104
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trò chơi trong quá trình học tập làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm giàu vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết học thì hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng trò chơi học tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi không khí trong lớp học, tạo ra sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt tình của các bạn trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú hơn với việc học từ ngữ trong các bài tập mở rộng vốn từ, làm giảm bớt đi sự khô khan của bài học, học sinh tiếp thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại, quản lý vốn từ đúng, sử dụng từ chính xác, linh hoạt.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Giáo dục thể chất
2
GDTC
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)