SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt

Giá:
50.000 đ
Môn: Tiếng việt
Lớp: 2
Bộ sách:
Lượt xem: 385
Lượt tải: 5
Số trang: 20
Tác giả: Phạm Thị Thanh Hà
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến
Năm viết: 2019-2020
Số trang: 20
Tác giả: Phạm Thị Thanh Hà
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến
Năm viết: 2019-2020

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Biện pháp 1: Phân nhóm học sinh.
Biện pháp 2: Giúp học sinh luyện nói thông qua hệ thống bài tập.
Biện pháp 3: Đảm bảo về điều kiện, cơ sở vật chất và sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

Mô tả sản phẩm

1. PHẦN MỞ ĐẦU ‎
1.1  Lí do chọn đề tài.
Giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông. Thành quả giáo dục tiểu học có tác dụng cơ bản lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi người. Những đức tính trung thực, công bằng, cẩn thận, lễ phép, hiếu thảo và những kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc viết, tính toán… nếu không được hình thành vững chắc ở tiểu học thì sẽ khó có cơ hội hình thành và phát triển ở những cấp học cao hơn. Để đạt được những mục tiêu trên, môn Tiếng Việt đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học, trang bị cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà trường. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi.
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ – tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng. Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học ………tôi được phân công giảng dạy lớp 2B. Sau khi nhận lớp và tổ chức dạy học cho học sinh tôi nhận thấy: Việc tổ chức luyện nói cho học sinh trong học Tiếng Việt còn gặp nhiều khó khăn và kết quả học tập chưa cao. Giáo viên thường đưa ra, giáo viên gợi ý, đa phần học sinh nhắc lại các câu mẫu của giáo viên chỉ có một số rất ít nói được theo cách riêng của mình.
Trên thực tế dạy học Tiếng Việt và đánh giá học sinh theo thông tư 22/2016/TT- BGDĐT, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động luyện nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Các em chưa mạnh dạn, tự tin khi nói hoặc chưa thể diễn đạt được nội dung cần nói (do vốn kĩ năng ngôn ngữ còn ít). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt, phát huy quan điểm dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải có những biện pháp cụ thể để tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh ngay trong giờ học Tiếng Việt. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt” để trao đổi với các bạn đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan  điểm nhận thức của bản thân. Trước những vấn đề mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói, lời phát biểu, trả lời các câu hỏi theo nội dung bài học, khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
– Biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết:
Sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu các tài liệu nói về vấn đề dạy học Tiếng Việt, nghiên cứu các bài viết, công trình nghiên cứu trên tập san, tạp chí,… có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc điều tra thực trạng.
2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin bằng các câu hỏi phỏng vấn:
– Giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 2.
– Học sinh khối 2.
3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu:
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của skkn.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt tiểu học ngoài việc cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng, nắm rõ vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp. Ông cha ta thường răn dạy con cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”; “ Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hay câu: “ Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.  Ngoài ra, việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực và trong công việc.
2.2. Thực trạng.
2.2.1. Về giáo viên:
Trong nhiều năm qua tôi thấy đa số giáo viên đã nắm bắt được tầm quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho học sinh và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong khi dạy. Qũy thời gian dành cho các phân môn của Tiếng Việt còn hạn chế. Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về nghi thức lời nói cũng như viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Một số giáo viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp dạy học còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến sửa câu, cách dùng từ đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ít sáng tạo. Bên cạnh đó giáo viên chưa tập chung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
2.2.2. Về học sinh:
` Những năm gần đây tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2. Trong quá trình dạy Tiếng Việt, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú trong giờ học, song chủ yếu tập chung vào các bài tập đọc, bài làm miệng với các yêu cầu học sinh cần diễn đạt bằng lời nói tôi thấy học sinh còn lúng túng. Mặc dù học sinh đã có vốn từ vựng nhất định và nắm được một số quy tắc giao tiếp trước khi đến trường Tiểu học nhưng các em còn mắc nhiều lỗi phát âm (thanh điệu, phụ âm đầu, phần vần, âm cuối). Lỗi dùng từ, cách thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ khi thể hiện lời nói. Ngôn ngữ của học sinh mang bản sắc địa phương, nhiều em còn bỡ ngỡ, lúng túng khi thực hiện hoạt động nói. Đặc biệt là khi nói theo chủ đề, nói về một nội dung nhất định. Các em gặp khó khăn khi lựa chọn từ ngữ, sắp xếp từ ngữ đó thành câu và sắp xếp các ý cần nói. Vì vậy, các em chưa chủ động nói mà chỉ nói khi được hỏi (trả lời câu hỏi).  Học sinh lớp 2 chưa có vốn từ phong phú, chưa sử dụng từ linh hoạt, việc nắm nghĩa của từ còn hạn chế. Việc vận dụng từ ngữ để đặt câu, tạo đoạn còn chưa linh hoạt, các ý cần nói chưa có sự chọn lọc và sắp xếp theo một trật tự từ lô gíc hợp lí. Vì vậy, các em thường nói tự do, nói không đủ câu, đủ ý, diễn đạt chưa mạch lạc, thường ngắc ngứ, lúng túng, bế tắc khi trình bày một vấn đề khó, cần huy động vốn từ lớn. Các em nói tự do theo suy nghĩ của mình, không chú ý tới cách thức nói, nghi thức nói và nội dung, mục đích của mình.
Hơn nữa tâm lý của các em học sinh lớp 2 thường nhút nhát, không tự tin, sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, trước những nơi đông người. Điều đó dẫn đến hiệu quả giao tiếp bị hạn chế. Trước tình hình đó vào đầu tháng 9  năm học ………tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng để tìm biện pháp khắc phục những tồn tại trên.

 

* Kết quả khảo sát phần luyện nói trong môn Tiếng Việt:
Lớp

Số
HS nói đúng, nói hay (nói có  kèm theo ngữ điệu, có cử chỉ, điệu bộ)
Học sinh nói trôi trảy, rõ ràng, diễn đạt được nội dung
HS hiểu nội dung câu hỏi nhưng trả lời còn   ngượng ngùng
Học sinh nói  không đủ  câu, đủ ý, diễn đạt còn  ngắc ngứ,  lúng túng.
2B
30
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
5
16,6
8
26.7
9
30
8
26,7

Qua khảo sát cho thấy số học sinh nói đúng, nói hay, nói trôi chảy chưa nhiều  mà số học sinh diễn đạt câu còn ngắc ngứ, lúng túng còn cao. Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tiếng Việt.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

SKKN Ứng dụng phương pháp học thông qua chơi để cải thiện hứng thú học TNXH cho học sinh lớp 2 (CD) (W+PPT)
Lớp 2
Tự nhiên xã hội
4.5/5

200.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)