Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ cho học sinh lớp 6
- Mã tài liệu: BM6075 Copy
Môn: | Ngữ Văn |
Lớp: | 6 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 745 |
Lượt tải: | 4 |
Số trang: | 26 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS DL Hồng Hà |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 26 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS DL Hồng Hà |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ cho học sinh lớp 6” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2.3.2.1. Rèn kỹ năng đặt câu.
a.Câu cần phải viết đúng với quy tắc ngữ pháp Tiếng Việt.
b..Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp với tư duy người Việt.
c.Câu phải được đánh dấu câu phù hợp.
d . Một số thao tác rèn luyện câu.
2.3.2.2. Rèn kỹ năng chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ.
2.3.3. Thiết kế giáo án minh họa – Ngữ văn lớp 6.
Mô tả sản phẩm
- MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Cũng như ngôn ngữ của loài người nói chung, câu Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng trong xã hội . Chức năng đó chẳng những biểu lộ trong lĩnh vực giao tiếp hàng ngày của mọi người Việt Nam, mà còn biểu lộ trong các lĩnh vực hoạt động giao tiếp về chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, giáo dục, ngoại giao…Câu Tiếng Việt đã từ lâu là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật- nghệ thuật ngôn từ. Nó đã góp phần thể hiện rõ sức mạnh và sự tinh tế, uyển chuyển trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Mặt khác, câu Tiếng Việt gắn bó chặt chẽ với hoạt động nhận thức và tư duy của người Việt, mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của người Việt. Nó trở thành một phần máu thịt trong con người Việt Nam. Chính vì thế, sử dụng câu Tiếng Việt, học Tiếng Việt phải hiểu được, cảm nhận được phần
( linh hồn dân tộc ấy).
Vì vậy trong cuộc sống để người khác có thể hiểu và tiếp nhận được thông tin thì người nói (người viết) ngoài việc dùng những kí hiệu thuộc chuyên ngành nhất thiết còn phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Việc dùng ngôn ngữ để diễn đạt cho người khác hiểu không chỉ là những từ ngữ rời rạc mà phải là những câu rõ ràng, rành mạch biểu thị một tư tưởng trọn vẹn của người nói.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, tôi nhận thấy kỹ năng đặt câu và chữa lỗi của học sinh còn chưa tốt. Nhiều em thường tỏ ra rất lúng túng khi giáo viên yêu cầu đặt câu, có khi câu do các em đặt ra nhưng các em cũng không biết đúng hay sai, có mắc lỗi gì không ? Hoạt động trên lớp là hoạt động giao tiếp giữa thầy với trò, nếu học sinh nói chưa thành câu thì giao tiếp không đạt được mục đích, giờ học không có kết quả.Từ thực tế trên cho nên tôi đã chọn đề tài: “ Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ cho học sinh lớp 6” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm nâng cao chất lượng học Tiếng Việt cho học sinh THCS, cụ thể là nâng cao khả năng đặt câu và chữa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh lớp 6, từ đó giúp học sinh thực hiện quá trình giao tiếp một cách có hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 6C, 6E Trường THCS Lý Tự Trọng, Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trực tiếp qua giảng dạy, đọc tài liệu tham khảo, khảo sát đối tượng học sinh qua giảng dạy bằng những bài kiểm tra trắc nghiệm, bài viết tập làm văn, tham khao ý kiến đồng nghiệp. Sưu tầm thông tin, viết đề cương, từ đó áp dụng vào để viết sáng kiến kinh nghiệm.
1.5. Thời gian nghiên cứu.
Tháng ……….. đăng kí viết sáng kiến kinh nghiệm.
Tháng ……….. đến tháng ……….. nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm .
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
2.1.1Về định nghĩa câu.
Từ trước đến nay có trên 300 định nghĩa . Từ thời cổ đại Hi Lạp, Aritote đã cho rằng: “Câu là một âm phúc hợp có ý nghĩa độc lập mà mỗi bộ phận riêng biệt trong đó có ý nghĩa độc lập ”. Ở Việt Nam, trước cách mạng, các giáo trình cũng như tài liệu về Tiếng Việt phần lớn mô phỏng sách ngữ pháp tiếng Pháp nên việc định nghĩa về câu cũng chưa có gì đổi mới . Sau các mạng, vấn đề câu đã được chú trọng hơn, tuy vậy việc định nghĩa về câu cũng có những điểm cần xem xét lại . Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Lân đã định nghĩa về câu như sau : “Nhiều từ hợp lại mà biểu thị một ý dứt khoát về động tác, tính tình hoặc tính chất của sự vật gọi là câu”.Tác giả Nguyễn Kim Thản không đưa ra định nghĩa trực tiếp mà chọn định nghĩa về câu của V.V. Vinogadov: “Câu là đơn vị hoàn chỉnh của lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các qui luật của một ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng để cấu tạo, biểu thị tư tưởng. Trong câu, không phải chỉ có sự truyền đạt về hiện thực mà còn có cả mối quan hệ của người nói với hiện thực ”.
UB KHXH cũng đưa ra định nghĩa câu tương tự: “Câu là đơn vị dùng từ hay đúng hơn là dùng từ ngữ pháp mà cấu tạo nên trong quá trình tư duy, thông báo; nó có ý nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp và có tính chất độc lập”.
Định nghĩa về câu trên đây đáp ứng nhu cầu đầy đủ cả hai mặt nội dung và hình thức cấu tạo nên câu, tuy vậy còn rườm rà , chưa đáp ứng tính ngắn gọn, súc tích của định nghĩa . PTS Đỗ Thị Kiêm Liên đưa ra định nghĩa về câu như sau: “Câu là đơn vị dùng từ đặt ra quá trình suy nghĩ, được gắn với ngữ cảnh nhất định nhằm mục đích thông báo hay thể hiện thái độ đánh giá. Câu có cấu tạo ngữ pháp độc lập , có ngữ điệu kết thúc”.
Về thành phần câu được hiểu là những thành tố tham gia cấu tạo nên câu. Đó là những bộ phận được xây dựng dựa trên những mối quan hệ về ý nghĩ và ngữ pháp trong một ngôn ngữ nhất định. Vấn đề phân định các thành phần câu cũng là một vấn đề phức tạp và có một lịch sử lâu dài . Ngay từ thời cổ đại, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã phân biệt chủ ngữ và vị ngữ. Trong Tiếng Việt, trong giai đoạn đầu, giai đoạn ngữ pháp kinh nghiệm, các học giả thường không đặt ra vấn đề phân loại thành phần câu thành phần chính và phụ Tuy nhiên khi mô tả thành phần câu, họ đều có xu hướng coi chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính. Từ những năm 1960 trở về sau, việc phân biệt thành phần chính phụ được các tác giả Việt ngữ thực sự quan tâm có thể khái quát thành ba nhóm chính.
a, Phân chia thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ và thành phần thứ yếu.
b, Phân chia ra thành phần chính, thành phần phụ và thành phần biệt lập.
c, Phân chia ra các thành phần chính và thành phần của câu.
Tóm lại: Thành phần câu trong Tiếng Việt tương đối phức tạp nên đã có nhiều cách giải thích khác nhau. Tuy vậy các ý kiến đều thống nhất về hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ.
2.1.2.Chủ ngữ: – Là thành phần chính của câu nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm, trạng thái ….được miêu tả ở vị ngữ. Chủ ngữ thường trả lời cho câu hỏi Ai?, Con gì?, hoặc Cái gì?.
– Chủ ngữ thường là danh từ, đại từ hoặc cụm danh từ. Trong những trường hợp nhất định, động từ, tính từ, hoặc cụm động từ , cụm tính từ cũng có thể làm chủ ngữ. Câu có thể có nhiều chủ ngữ.
2.1.3. Vị ngữ: Là thành phần chính của câu có khả năng kết hợp với các phó từ chỉ quan hệ thời gian và trả lời cho các câu hỏi Làm gì?, Làm sao?, Như thế nào?, hoặc là gì?.
– Vị ngữ thường là động từ hoặc cụm động từ, tính từ hoặc cụm tính từ, danh từ hoặc cụm danh từ . Câu có thể có nhiều vị ngữ.
Chủ ngữ và vị ngữ luôn có mối quan hệ khăng khít, có chủ ngữ thì phải có vị ngữ và ngược lại. Đây là kết cấu hai chiều. Vì vậy cần phải xác định đúng ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Trong quá trình giảng dạy hiện nay nhiệm vụ của người giáo viên dạy Ngữ văn nói chung và dạy phân môn Tiếng Tiệt nói riêng có vai trò quan trọng. Đặc biệt trong giảng dạy phân môn Tiếng Việt giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất. Từ đó giúp các em có khả năng tư duy chính xác, có kỹ năng giao tiếp tốt trong quá trình học tập.
Qua việc thực hiện giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp tôi thấy có một số giờ dạy Tiếng Việt mà cụ thể là trong việc rèn kỹ năng đặt câu và sửa lỗi về chủ ngữ và vị ngữ cho học sinh đạt hiệu quả chưa cao. Có những hoạt động dạy của giáo viên đôi khi còn thụ động, máy móc, hình thức. Giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng đặt câu cho học sinh vì thời gian trên lớp để thực hiện và tổ chức cho học sinh rèn luyện là không nhiều.
Mặt khác do học sinh khối 6 mới chuyển từ lớp 5 lên nên chưa có nhiều thời gian để thích nghi nhanh với các phương pháp học tập mới. Vì thế khiến
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 2
- 163
- 2
- [product_views]
- 3
- 183
- 3
- [product_views]
- 0
- 124
- 4
- [product_views]
- 0
- 134
- 5
- [product_views]
- 0
- 109
- 6
- [product_views]
- 5
- 101
- 7
- [product_views]
- 7
- 117
- 8
- [product_views]
- 1
- 174
- 9
- [product_views]
- 8
- 179
- 10
- [product_views]