SKKN Rèn kĩ năng xây dựng văn bản cho học sinh lớp 7 giúp các em nâng cao khả năng viết văn
- Mã tài liệu: BM7078 Copy
Môn: | Ngữ Văn |
Lớp: | 7 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 1639 |
Lượt tải: | 4 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Phạm Thị Minh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Thành Long |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Phạm Thị Minh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Thành Long |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Rèn kĩ năng xây dựng văn bản cho học sinh lớp 7 giúp các em nâng cao khả năng viết văn” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Rèn kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề.
2. Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cho các đề văn.
3. Rèn kĩ năng trình bày.
4. Rèn kĩ năng diễn đạt.
5. Rèn kĩ năng đọc và sửa bài.
Mô tả sản phẩm
I – MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống người dân đang dần được cải thiện. Điều đó tác động không nhỏ đến công tác giáo dục, tạo động lực cho việc chúng ta tìm ra nhân tài cho đất nước thông qua việc các em hứng thú học và cảm thụ các giờ văn. Nhưng trước sự mở cửa của đất nước trong xu thế hội nhập về kinh tế thì vị trí môn Ngữ văn trong nhà trường ngày càng bị xem nhẹ, đặc biệt là đối với học sinh, học văn các em xem như là một sự ép buộc
(nhất là trong việc lựa chọn học sinh giỏi đi dự thi HSG môn Ngữ văn cấp Huyện, trước định hướng của phụ huynh học sinh các em càng ngại và không muốn đi thi HSG môn này). Cũng vì thế mà hiện nay chúng ta có thể thấy có một số em rất giỏi về làm kinh tế hay giỏi về nhiều ngoại ngữ nhưng không thể hiểu nổi ý nghĩa của một câu ca dao, tục ngữ đơn giản; không biết cách viết một câu đơn theo đúng nghĩa của nó. Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn, hẳn mỗi lần chấm bài làm của học sinh chúng ta phải bật cười vì những câu không có nghĩa, hay trên lớp khi dạy học xong một bài văn bản, bài thơ…chúng ta cho học sinh phát biểu cảm nghĩ của mình với bài vừa học thì khi phát biểu của các em vừa dứt cũng là tràng cười của cả lớp ngả nghiêng, thế nhưng cũng đằng sau tiếng cười ấy lại là một nỗi chua xót đắng cay và những giọt nước mắt cảm thấy hổ thẹn thay vì sản phẩm ấy là của mình. Vì vậy, công việc dạy học đối với giáo viên Ngữ văn đòi hỏi làm sao phải lôi cuốn được học sinh ham thích tiết học văn bản để từ đó viết bài văn, tự nguyện đăng kí được dự thi học sinh giỏi môn Ngữ văn từ cấp trường trở lên, đó là một việc làm thường xuyên của giáo viên nói chung đặc biệt đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn. Đây là một công việc mà người dạy học có thể đánh giá mức độ thành thạo về kĩ năng, mức độ tiếp thu kiến thức và tâm thế sau tiết học của học sinh, qua đó mà chúng ta có thể phần nào tự đánh giá công việc dạy học của mình và có biện pháp điều chỉnh sao cho hợp lí, phù hợp với tình hình học tập của học sinh.
Tuy nhiên, không phải lúc nào bộ môn Ngữ văn cũng lôi cuốn hứng thú đối với học sinh và tất cả học sinh cũng được giáo viên quan tâm đúng mức. Trong thời gian tham gia chỉ đạo chuyên môn ở Tổ xã hội cũng như thực tế đã đứng lớp giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm, tôi thấy nhiều thầy cô giáo chưa quan tâm đến vấn đề này vì khi đến những tiết văn bản giáo viên thường cung cấp kiến thức phần lớn đủ theo hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa, ít tìm tòi bổ sung, mở rộng kiến thức ở các bộ môn khác và không kích thích khả năng khám phá, sáng tạo của học sinh; “phớt lờ” cần biết thái độ học sinh đối
với bài dạy, tiết dạy của mình vì “ lương” của mình cứ đến kì thì tăng, cứ đến ngày là được lấy.
Có thể thấy, đây không phải là vấn đề mới, tuy nhiên xuất phát từ tình hình thực tế mỗi giáo viên có quan điểm khác nhau , cách tổ chức khác nhau, giáo án khác nhau trong tiết dạy học văn bản nhằm gây hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn, bằng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn tôi chọn viết về: Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên bộ môn Ngữ văn thực hiện dạy học kiến thức liên môn cho bài “ Mùa xuân của tôi” – Vũ Bằng , trong chương trình Ngữ văn 7 nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh ở Trường THCS Trường Lâm.
- Mục đích nghiên cứu
Chỉ đạo giáo viên thực hiện dạy học tiết văn bản có sử dụng kiến thức liên môn để :
- Giáo viên: Tăng khả năng tự học, tự bồi dưỡng kiến thức cho bộ môn của mình đồng thời mở rộng kiến thức thêm ở các bộ môn khác
- Học sinh: Tăng khả năng sáng tạo, yêu thích học bộ môn Ngữ văn
- 3. Đối tượng nghiên cứu
– Đối với GV: nắm được phương pháp, cách thức cách truyền giảng tới HS
– Đối với HS: nắm bắt tâm tư, nguyện vọng đối với bộ môn và giáo viên
- Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: chỉ đạo tổ bộ môn cứ các công văn hướng dẫn của Ngành, căn cứ tình hình thực tiễn của giáo viên bộ môn họp bàn để xây dựng tiết dạy cho đồng nghiệp của mình
– Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin : bằng phiếu nhằm thu thập thông tin về thực trạng học sinh thụ động và ít hứng thú với việc học môn Ngữ văn qua đó xác định nguyên nhân của thực trạng làm cơ sở cho việc xác lập các biện pháp nhằm gây hứng thú cho HS
– Phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu: nhằm nổi bật kết quả đạt được trước và sau khi áp dụng bài dạy.
– Phương pháp quan sát : nhằm thu thập các biểu hiện sinh động, khách quan về thái độ, hứng thú cũng như mức độ tham gia hoạt động trong giờ học của học sinh
– Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm nhằm mục đích kiểm tra kết quả của việc sử dụng các kiến thức liên môn theo qui trình thiết kế trong bài giảng để điều chỉnh sao cho phù hợp.
II – NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1/ Cơ sở lí luận của Sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết TW 4 khoá VII, Nghị quyết TW 2 khoá VIII và được pháp
chế hóa trong Luật Giáo dục ( sửa đổi) như sau:
Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.”
Điều 24.2. Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc diểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2. ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho
người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng
cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập,…”
Thực hiện công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014của Bộ Giáo dục và Đào tạo và công văn số 1976/SGDĐT- GDTrH của Giám đốc Sở GD& ĐT Thanh Hóa ngày 20 tháng 10 năm 2014 V/v: Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng chỉ rõ về:
* Mục đích: Giúp cho cán bộ quản lý, giáo viên bước đầu biết chủ động lựa chọn nội dung để xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi năm học và các chuyên đề tích hợp, liên môn phù hợp với việc tổ chức hoạt động dạy học tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh; sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để xây dựng tiến trình dạy học theo chuyên đề nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh;
*Yêu cầu: Việc xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi môn học, các chuyên đề tích hợp, liên môn và kế hoạch dạy học bộ môn phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương và khả năng học tập của học sinh;
* Nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn về đổi mới PPDH và KTĐG
– Xây dựng chuyên đề dạy học: Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng.
– Biên soạn câu hỏi/bài tập: Với mỗi chuyên đề đã xây dựng, xác định và
mô tả 4 mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng cấp độ thấp, vận dụng cấp độ cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 2
- 163
- 2
- [product_views]
- 3
- 183
- 3
- [product_views]
- 0
- 124
- 4
- [product_views]
- 0
- 134
- 5
- [product_views]
- 0
- 109
- 6
- [product_views]
- 5
- 101
- 7
- [product_views]
- 7
- 117
- 8
- [product_views]
- 1
- 174
- 9
- [product_views]
- 8
- 179
- 10
- [product_views]