Logo Kiến Edu

SKKN Sử dụng đồ dùng dạy học tự làm – Mô hình: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau, để minh họa trong dạy bài 9: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa – Địa lí 6

Giá:
50.000 đ
Cấp học: THCS
Môn: Địa lí
Lớp: 6
Bộ sách:
Lượt xem: 1904
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
34
Lượt tải:
1

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Sử dụng đồ dùng dạy học tự làm – Mô hình: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau, để minh họa trong dạy bài 9: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa – Địa lí 6” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

3.1. Thực hiện làm mô hình: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau trên Trái Đất
3. 2. Sử dụng mô hình tự làm về Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau, đề minh họa trong bài dạy bài 9: “Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa”- Địa lí 6
a. Sử dụng mô hình trong dạy mục 1: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn ở các vĩ độ khác nhau trên Trái Đất
* Thứ nhất, sử dụng mô hình để minh họa cho học sinh thấy hiện tượng ngày và đêm trên Trái Đất
* Thứ hai, sử dụng mô hình để minh họa cho học sinh thấy: Vì sao đường chỉ trục Trái Đất và đường phân chia sáng tôi không trùng nhau
* Thứ ba, sử dụng mô hình để minh họa góc chiếu của ánh sáng mặt trời vuông góc với mặt đất vào ngày 22/6 (hạ chí) và ngày 22/12 (đông chí) tại vĩ tuyến 23027’Bắc(chí tuyến Bắc) và 23027’N(chí tuyến Nam)
* Thứ tư, sử dụng mô hình để minh họa: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau trên Trái Đất
b. Sử dụng mô hình để minh họa trong mục 2: Ở hai miền cực có số ngày, đêm dài suốt 24 giờ thay đổi theo mùa
* Thứ nhất, sử dụng mô hình minh họa cho độ dài ngày, đêm dài ngắn từ vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam đến hai cực ở hai nửa cầu vào ngày 22-6
* Thứ hai, sử dụng mô hình minh họa cho độ dài ngày, đêm dài ngắn từ vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam đến hai cực ở hai nửa cầu vào ngày 22/12
* Thứ 3, giáo viên sử dụng mô hình minh họa (phụ lục 2 và 3), rút ra kết luận và chốt kiến thức mục 2

Mô tả sản phẩm

  1. MỞ ĐẦU

1-   Lí do chọn đề tài

       Quá trình toàn cầu hóa đã làm thế giới có những thay đổi nhanh chóng, đặt nước ta đứng trước những thời cơ hội nhập sâu rộng, nhưng cũng nhiều thách thức, khó khăn. Hơn nữa, theo mục tiêu phát triển tổng quát đến năm 2020, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín trong khu vực và thế giới. Do đó, giáo dục đào tạo càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Nhân tố quyết định thắng lợi quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế chính là nguồn nhân lực. Cùng với số lượng thì chất lượng nhân lực dựa trên cơ sở mặt bằng dân trí cần được chú trọng nâng cao, việc này được bắt đầu từ công tác giáo dục. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định ‘‘Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, ‘‘Đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển”

         Song song với đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những bước thay đổi to lớn trong công tác giáo dục- đào tạo, thể hiện rõ trong trong Hội nghị Trung ương 8 khóa XI Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Trong Đại hội XII tiếp tục khẳng định: ‘‘Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực”. Trong đó, một giải pháp quan trọng được nêu trong văn kiện, đó là: Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Theo đó, cùng với đổi mới về mục tiêu, chương trình, nội dung, cấu trúc sách giáo khoa, phương pháp quản lí,… thì đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố hết sức quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả, mục tiêu của giáo dục. Đổi mới phương pháp giáo dục chính là cải tiến những hình thức, cách thức làm việc kém hiệu quả của giáo viên và học sinh để sử dụng hình thức, cách thức làm việc hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, trên cơ sở đó hướng tới một mục tiêu giáo dục cao hơn, toàn diện hơn, bao gồm cả phẩm chất đạo đức, tr thức, năng lực, kĩ năng và khả năng chiếm lĩnh tri thức mới một cách độc lập sáng tạo.

       Môn Địa lí là môn học gắn liền với thiên nhiên, với đất nước và đời sống con người, học địa lí giúp các em hiểu và giải thích được một số đối tượng, sự vật và hiện tượng địa lí diễn ra xung quanh con người. Tuy nhiên, các đối tượng, sự vật và hiện tượng địa lí có thể xảy ra trước mắt các em, nhưng có những sự vật, hiện tượng địa lí không phải lúc nào cũng xảy ra trước mắt, nhất là sự vật, hiện tượng địa lí tự nhiên. Vì vậy, nhiều khi phải thông qua quan sát tranh ảnh, hình vẽ, bản đồ, mô hình,….nên việc dạy và học gặp không ít khó khăn

       Ngày nay, nhờ sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật hiện đại trong giảng dạy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền thụ kiến thức, làm cho người học  tiếp cận với các sự vật hiện tượng, đối tượng địa lí trực quan hơn, tạo cho các em có nhiều hứng thú trong học tập và tiếp thu kiến thức thuận lợi hơn rất nhiều. Tuy nhiên, ngay cả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại đó thì việc truyền thụ kiến thức cho các em vẫn còn gặp nhiều hạn chế.

      Trong chương trình Địa lí 6, các em sẽ được tìm hiểu về các đối tượng, sự vật và hiện tượng địa lí về tự nhiên diễn ra trên Trái Đất. Trong đó, có nhiều sự vật, hiện tượng khá quen thuộc, gần gũi, xảy ra xung quanh, thậm chí ngay trước mắt các em, các em có thể quan sát, cảm nhận thấy. Nhưng có nhiều sự vật, hiện tượng lại không diễn ra trước mắt các em, hoặc diến ra trong một không gian rộng lớn, rất khó quan sát tổng thể, lại là những kiến thức khá trừu tượng đối với đối tượng học sinh lớp 6- khối lớp nhỏ tuổi trong khối THCS, đòi hỏi tư duy không gian rất lớn, nên để cho các em hiểu và giải thích được các sự vật hiện tượng đó lại không hề đơn giản, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đặc biệt phải sử dụng đồ dùng dạy học triệt để, phù hợp với nội dung bài học và tâm sinh lí lứa tuổi

    Trên thực tế, bản thân tôi đã từng gặp khó khăn, lúng túng khi truyền thụ cho các em tiếp thu và hiểu kiến thức, sự vật, hiện tượng địa lí ở một số bài học, trong số đó có bài: ‘‘Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa”- Địa lí 6. Sau nhiều năm công tác, giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu về phương pháp, sử dụng phương tiện, cách thức truyền đạt để bài học đạt hiệu quả cao nhất. Trong quá trình đó, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm và mạnh dạn đưa ra để quý thầy cô, đồng nghiệp cùng tham khảo, chia sẽ, đó là: Sử dụng đồ dùng dạy học tự làm- mô hình: Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa ở các vĩ độ khác nhau, để minh họa trong dạy bài 9: ‘‘Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa”- Địa lí 6

2-  Mục đích nghiên cứu.

–    Truyền đạt kiến thức địa lí một cách trực quan, thuận lợi và hiệu quả nhất trong bài.

–    Tạo sự hứng thú, tính tự giác, sáng tạo và tư duy độc lập của học sinh trong tiếp thu kiến thức Địa lí.

3-  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

  1.   Đối tượng nghiên cứu:Học sinh lớp 6
  2. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối 6 trường THCS Công Bình năm học ……..; …….., ……..và năm học ……..

4-  Phương pháp nghiên cứu.

  1. Dựa trên nghiên cứu tài liệu 
  2. Phương pháp quan sát, phân tích, so sánh
  3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm, khảo sát thực tế

 

  1. NỘI DUNG

 1- Cơ sở lí luận

     Dạy học là một nghệ thuật truyền thụ kiến thức, người giáo viên vừa là một nhà tri thức, nhà khoa học, vừa là một nhà tâm lí và là một nghệ sĩ. Trước sự thay đổi và yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi người giáo viên không ngừng tìm tòi, học hỏi vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp, hình thức, phương thức tổ chức, kĩ thuật dạy học một cách hiệu quả nhất đối với từng bài học, từng tiết học.

    Trên cơ sở đó, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, các phương tiện hiện đại vào quy trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh…”

     Trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, Ban chấp hành Trung ương Đảng cũng đã xác định “Tiếp tuc đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”.

     Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ‘‘Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục và đào tạo”. Trong đó, phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ và trưởng thành.

      Đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của học sinh, từ đó quyết định đến chất lượng giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách dạy của thầy, đổi mới cách học của trò, đổi mới mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò, tăng cường mối quan hệ giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa tư duy và cảm xúc trong dạy học. Trong mỗi giờ học cần cho học sinh có điều kiện hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn và được thảo luận, suy nghĩ nhiều hơn, từ đó thay đổi cách học tập của học sinh, từ học tập thụ động đến chủ động tích cực, sáng tạo tiếp thu, chiếm lĩnh kiến thức bài học biến quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình tự học của học sinh. Điều đó cũng khẳng định được vai trò hết sức quan trọng của người giáo viên trong việc tổ chức thực hiện truyền thụ kiến thức ở mỗi giờ dạy, tiết học, nó sẽ quyết định việc học sinh lĩnh hội được lượng kiến thức nhiều hay ít, thụ động hay chủ động, tích cực hay không tích cực.

       Mặt khác, theo quan điểm phép tư duy biện chứng, quá trình nhận thức của con người là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu     tượng đến thực tiễn” qua đó hình thành nên các khái niệm, quy luật và các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.

      Thực tế cho ta thấy, để đạt được mục tiêu giáo dục, cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố: từ chương trình, nôi dung, hình thức giáo dục, phương pháp, phương tiện, kĩ thuật dạy học….Nhưng trong bất kỳ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục vẫn là người giáo viên. Theo đó, người giáo viên phải biết kết hợp một cách khéo léo các phương pháp, hình thức và vận dụng thuần thục, linh hoạt, sáng tạo các phương tiện hiện đại kết hợp với truyền thống, các kĩ thuật, kĩ năng trong một bài dạy, một tiết dạy thì bài dạy đó, tiết dạy đó sẽ thành công.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Lớp 6
Địa lí
4.5/5
TÀI LIỆU WORD

100.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)