SKKN Ứng dụng CTTT vào dạy phân môn kể chuyện nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2

Giá:
50.000 đ
Môn: Tiếng việt
Lớp: 2
Bộ sách:
Lượt xem: 738
Lượt tải: 13
Số trang: 29
Tác giả: Đặng Thị Hồng Linh
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quang Trung
Năm viết: 2021-2022
Số trang: 29
Tác giả: Đặng Thị Hồng Linh
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quang Trung
Năm viết: 2021-2022

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Ứng dụng CTTT vào dạy phân môn kể chuyện nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

2.3.1. Tìm hiểu phân loại đối tượng HS để tạo nhóm học tập cho phù hợp.
2.3.2. Ứng dụng CNTT để tạo không khí thoải mái, tự tin cho HS khi luyện nói
2.3.3. Ứng dụng CNTT để giúp HS quan sát tranh tốt hơn.
2.3.4. Sử dụng CNTT để lựa chọn hình ảnh phù hợp thay thế các hình ảnh trong SGK.

Mô tả sản phẩm

1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển của đất nước, Công nghệ thông tin (CNTT) đang phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là cuộc cách mạng 4.0. Nó có tác động tới tất cả các mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự hiểu biết về văn hóa – xã hội ngày càng được nâng cao. Nhận thấy tầm quan trọng, tác dụng to lớn của CNTT ngày 25/01/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 117/QĐ- TTg phê duyệt đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lí và hỗ trợ các hoạt động day – học, nghiên cứu khoa học góp phần năng cao chất lượng giáo dục đào tạo giai đoạn 2016- 2025, định hướng đến 2025”. [1]
Nhận thấy vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy và học.Tập thể cán bộ GV Trường Tiểu học Nga Thiện đã bắt tay ngay vào việc ứng dụng CNTT vào dạy học, công tác quản lí…GV tiến hành soạn bài trên máy tính, lưu giữ tài liệu, khai thác thông tin, ra đề kiểm tra, thiết kế bài dạy điện tử, lấy tài liệu trên Internet để áp dụng vào giảng dạy, soạn giảng trên máy chiếu để củng cố kiến thức, tạo hình ảnh sinh động, cụ thể cho HS dễ hiểu, nhớ lâu ..các em rất thích thú khi tham gia những tiết học như vậy.
Đặc biệt với các em lớp 2, là HS đầu cấp đang chuyển sang một giai đoạn mới từ hoạt động chủ đạo là vui chơi, múa hát ở mẫu giáo sang hoạt động mới là hoạt động học. Tư duy của các em còn đơn giản mang tính trực quan, cụ thể. Sự hiểu biết về cuộc sống xung quanh các em còn hạn chế. Làm thế nào để tạo hứng thú trong giờ học ? Làm thế nào để thu hút các em vào hoạt động học tập một cách chủ động, say mê? Làm thế nào để các em yêu thích giờ học, thích đến trường đến lớp làm tôi trăn trở rất nhiều.
Qua các năm dạy lớp 2, qua quá trình tìm hiểu, xác định mục tiêu của dạy Tiếng Việt là dạy giao tiếp thông qua các kĩ năng: nghe-nói-đọc-viết. Mà nhu cầu giao tiếp của con người có ở mọi lúc, mọi nơi, mọi nghành nghề. Nói năng tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các em không chỉ trong thời gian học tập ở trường mà còn trong suốt thời gian sống và làm việc sau này. Chúng ta cần sớm rèn cho trẻ biết nói năng lễ phép, lịch sự, có biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế chúng ta cần rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với mọi người hay nói trước tập thể đông người. Trong các môn học ở bậc học Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học có nhiều phân môn và chiếm nhiều thời gian học tập của học sinh nhất. Tuy nhiên, trong môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện được nhìn nhận với tầm quan trọng đặc biệt, vì nó mang tính thực hành cao.
Vậy làm thế nào để học sinh mạnh dạn, tự tin biết diễn đạt lời nói rõ ràng, đủ ý mà thời gian dành cho các em luyện nói chỉ trong 1tiết / tuần, các em thường thuộc lòng câu chuyện trong bài tập đọc nên khi khi kể như người đọc vẹt hoặc quên nội dung câu chuyện thường ấp úng kể không rõ nghĩa không gây được hứng thú cho người nghe nên các em chán học tiết kể chuyện, hơn nữa tranh ảnh trong SGK nhiều hình còn nhỏ, không rõ ràng… rất khó khăn cho các em trong quá trình quan sát.
Vì vậy để giúp các em kể một cách tự nhiên và điệu bộ thích hợp làm cho câu chuyện trở nên sống động đồng thời thu hút các em tích cực tham gia vào tiết học: mình nghe bạn kể, bạn kể cho mình nghe, tạo cho tiết học sinh động, sôi nổi, giúp các em mạnh dạn, tự tin diễn đạt lời nói rõ ràng đủ ý, dám chia sẻ, dám thể hiện cảm xúc, ý kiến, tỏ rõ quan điểm, thái độ của mình trước bạn bè, thầy cô, trước tập thể… vì thế tôi đã mạnh dạn: “Ứng dụng CTTT vào dạy phân môn kể chuyện nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm:
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến chất lượng tiết Kể chuyện của học sinh chưa cao. – Đề xuất, ứng dụng CNTT vào dạy học phần kể chuyện cho HS lớp 2.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
HS lớp 2A,2B
Phân môn Kể chuyện của lớp 2A, 2B
Vai trò, lợi ích của việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Đọc, nghiên cứu SGK, SGV môn Tiếng Việt lớp 2: Đây là vấn đề then chốt ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy. GV phải đọc, nắm vững nội dung, mục đích của SGK, tìm kiếm tài liệu tham khảo trong SGV và các tài liệu khác.Từ đó tìm ra PPDH phù hợp với nội dung bài và đối tượng HS của mình.
Nghiên cứu cách ƯDCNTT vào dạy học: Để bài soạn có cấu trúc chặt chẽ, logic được quy định bởi cấu trúc của bài học giáo viên phải xác định mục tiêu, trọng tâm và kiến thức cơ bản của bài học để làm nổi bật các mối quan hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài.Từ đó xây dựng kịch bản, lấy tư liệu cho các hoạt động: hoạt cảnh (Animation), ảnh chụp (image); âm thanh (audio);và phim vi deo (videoclip). Sau đó, giáo viên lựa chọn phần mềm công cụ và số hoá nội dung tạo hiệu ứng trong các tương tác. Cuối cùng, chỉnh sửa, chạy thử và hoàn thiện nội dung bài dạy.
Sử dụng PP quan sát: Đây là một phần quan trọng trong tiết Kể chuyện vì nội dung Kể chuyện đều có nội dung tranh.Các em biết quan sát tranh kết hợp với nội dung bài tập đọc để cảm nhận và diễn đạt bằng lời nói. – Sử dụng PP thảo luận nhóm: Là PP trong đó GV tổ chức đối thoại giữa HS và GV hoặc HS và HS nhằm huy động trí tuệ của tập thể để giải quyết một vấn đề mà môn học đặt ra.
PP điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Để làm tốt SKKN tôi đã trực tiếp dạy, tìm hiểu, nghiên cứu những ưu điểm, hạn chế của PPDH đang sử dụng. Từ đó tôi khảo sát thực tế qua dự giờ, thăm lớp, qua phiếu điều tra để tìm kiếm những thông tin chính xác định hướng cho PPDH mới mà mình thử nghiệm 1.5.Những điểm mới của SKKN:
Ứng dụng CNTT vào dạy học môn Kể chuyện cho HS lớp 2.

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Một là: Song song với sự phát triển nền kinh tế của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu” . Đảng và Nhà nước đưa ra những định hướng, hướng dẫn …cho sự nghiệp giáo dục phát triển phù hợp với xu thế phát triển của các nước trong khu vực cũng nước trên thế giới. Trong đó có rất nhiều hướng dẫn về Ứng dụng CNTT trong nhà trường như:
+ Ban chấp hành TW 8 Khoá XI đã có định hướng cho phát triển giáo dục. “Tập trung chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ thực sự ngang tầm là quốc sách hàng đầu” [2].
+ Công văn số /BGDĐT-CNTT ngày ………..về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học ………… [1]. Cụ thể với 5 nội dung sau:
Ứng dụng CNTT trong các hoạt động điều hành và quản lý giáo dục.
Ứng dụng CNTT hỗ trợ đổi mới nội dung, phương pháp dạy, học và kiểm tra đánh giá.
Triển khai hạ tầng và thiết bị CNTT
Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
Hướng dẫn triển khai mô hình ứng dụng CNTT trong trường phổ thông. + Thông tư Quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động bồi dưỡng, tập huấn qua mạng Internet cho giáo viên, nhân viên và cán bộ quản lý giáo dục ………../TT-BGDĐT Ngày ban hành ………..
Hai là: Trong mục tiêu giáo dục và giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn Kể chuyện có vị trí, vai trò rất quan trọng, góp phần tích cực trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, trau dồi những tri thức về cuộc sống và bồi dưỡng vốn văn học cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, phân môn kể chuyện còn giúp các em phát triển các năng lực tư duy cơ bản như: Trí tưởng tượng, óc phán đoán, khả năng ghi nhớ, năng khiếu thẩm mỹ, hình thành ở trẻ em nhiều phẩm chất tốt đẹp, rất cần thiết cho nhu cầu phát triển ở lứa tuổi này.
Cùng với các môn học khác, phân môn Kể chuyện góp phần hình thành nhân cách rất lớn cho học sinh, nó mở mang sự hiểu biết cho các em. Các em được học hỏi những điều hay, lẽ phải từ rất nhiều các câu chuyện, thuộc nhiều thể loại chuyện khác nhau, phản ánh đa dạng cuộc sống muôn hình muôn vẻ trong đó có cả những câu chuyện dân gian như: Truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười… mà ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống để truyền lại cho con cháu đời sau.
Ba là: Nếu như ở bậc Mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, múa hát thì đến bậc học Tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Để giúp HS học tập được tốt chúng ta phải hiểu rõ về đặc điểm tâm lí HS Tiểu học, đặc biệt là HS đầu cấp. Ví dụ:
Tri giác: Ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát
Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học: Ở đầu tuổi Tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,… Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Từ đặc điểm tâm lí của HS lớp 1 tôi đã cố gắng tạo nên những tiết học sinh động có hình ảnh trực quan phong phú để thu hút các em tham gia học tập một cách hứng thú, say mê, yêu thích môn học, thích đến trường đến lớp.
2.2. Thực trạng
2.2.1. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Quá trình giảng dạy, qua việc dự giờ thăm lớp của các GV trong nhà trường tôi thấy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy còn rất nhiều hạn chế. Hầu hết GV chỉ thực hiện trong những tiết thao giảng, thi GV giỏi còn lại các giờ học khác GV đều dạy “chay”. Bởi một tâm lí chung: ngại khó, ngại đổi mới, ngại tốn thời gian..
Nhiều GV cho rằng dạy Kể chuyện không cần thiết phải ứng dụng CNTT bởi mọi người thường nghĩ: dạy sao miễn HS biết đọc, biết viết là được vì vậy kĩ năng nói thường chưa được chú trọng như yêu cầu của mục tiêu môn Tiếng Việt, thường tập trung vào một số HS giỏi, những em nhút nhát, yếu kém thường bị bỏ qua.
Hơn nữa cơ sở vật chất ở hầu hết các trường Tiểu học còn nhiều thiếu thốn. Đa phần các nhà trường thường chỉ có 1 bộ máy chiếu, chưa có máy Scan, máy chụp ảnh để phục vụ, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy ứng dụng CNTT trong dạy học.
2.2.2. Thực trạng chung của giáo viên và học sinh + Đối với học sinh:
Qua quá trình giảng dạy ở xã Nga Thiện nhiều năm cũng như qua quá trình khảo sát đầu năm học. Tôi thấy các em hầu hết đều là con nhà nông kinh tế còn khó khăn, điều kiện tiếp xúc với CNTT còn hạn chế. Hơn nữa môi trường giao tiếp của các em còn nhỏ hẹp các em thường trả lời cộc lốc. Nhiều em còn nhút nhát sợ nói trước người lạ, trước đám đông nên thường chỉ 1 số em HS giỏi mạnh dạn tham gia còn đại đa số các em thường ngồi nghe và nhắc lại.
Vốn từ ngữ của trẻ vào lớp 2 còn nghèo nàn, đặc biệt các em vùng nông thôn, miền núi nên diễn đạt ý tứ bằng lời nói rất khó khăn, vất vả, không biết cách diễn đạt hết ý của mình. + Đối với giáo viên:
Giáo viên còn máy móc, khô cứng đã gò học sinh nói theo ý và lời người lớn. theo mô típ có sẵn nên rất đơn diệu và nhàm chán chưa phát huy được tính tự chủ của học sinh.
Giáo viên chưa tạo được tâm thế và tâm lí tốt cho trẻ khi trình bày phần Kể chuyện của mình cho nên dẫn đến chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh. Học sinh chưa mạnh dạn thao tác, trao đổi, tranh luận, đánh giá, nhận xét về một đơn vị kiến thức của bài.
Thời gian dành cho phần Kể chuyện còn ít. Một số câu chuyện còn mới, xa lạ với học sinh vùng nông thôn, vốn hiểu biết về sự việc, hoàn cảnh câu chuyện còn hạn chế nên các em sẽ gặp khó khăn khi nói về nội dung đó.
Qua các năm dạy lớp 2, qua thực tế học các tuần đầu năm học ………..tôi trực tiếp khảo sát tiết Kể chuyện: Bài Mẩu giấy vụn (Trang 49 SGK TV2 Tập 1) ở cả hai lớp 2A (Lớp đối chứng), lớp 2B (Lớp kiểm nghiệm ). Tôi thấy kết quả như sau :

Nội dung
Lớp 2A (28 HS)
Lớp 2B (30 HS)
SL
TL
SL
TL
Chưa nhớ truyện
5
17,8 %
4
13,3 %
Kể bằng hình thức đọc
15
53,7%
16
53,4 %
Kể và thể hiện được lời thoại
5
17,8 %
6
20 %
Kể và nhập vai tốt
3
10,7%
4
13,3 %

Qua khảo sát tôi thấy rất lo lắng bởi tỉ lệ các em mạnh dạn, tự tin để diễn đạt lời kể của mình theo một nội dung câu chuyện còn rất yếu kém. Các em chưa có thói quen kể chuyện mà chỉ dừng ở việc đọc chuyện. Các em rất rụt rè khi giao tiếp với thầy cô, người lớn. Các em chưa mạnh dạn để bày tỏ ý kiến của mình mà chỉ nhắc lại lời các bạn giỏi hay theo gợi ý mà thầy cô đưa ra cho nên đến tiết Kể chuyện tâm lí các em rất sợ sệt: sợ nói sai, sợ nói trước đông người… vì vậy chất lượng tiết Kể chuyện hầu như rất thấp chưa tạo được hứng thú của học sinh trong giờ học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Để thu hút các em tham gia tích cực vào tiết Kể chuyện cũng như ổn định tâm lí cho học sinh tạo cho các em mạnh dạn, tự tin diễn đạt lời nói của mình theo khả năng của mỗi học sinh. Tôi đã tiến hành một số giải pháp sau:
2.3.1. Tìm hiểu phân loại đối tượng HS để tạo nhóm học tập cho phù hợp.
Qua một thời gian giao tiếp với các em trong giờ học, giờ ra chơi cũng như giờ sinh hoạt ngoại khóa..Tôi đã quan sát, trò chuyện, tìm hiểu về khả năng nói của từng em. Từ đó tôi đã phân nhóm học cho phù hợp để các em có thể giúp đỡ, hỗ trợ, học hỏi lẫn nhau trong giờ học.
Ví dụ: Người mẹ hiền –Tuần 8 (Trang 63 – TV2 Tập 1)
Đây là một câu chuyện tương đối gần gũi, diễn ra thực tế trong cuộc sống hằng ngày với các em…Vì vậy tôi sẽ huy động vốn kiến thức đã có ở các em đặc biệt là các em HS giỏi sẽ hỗ trợ bằng cách nêu câu hỏi để cho các bạn yếu hơn trả lời.
+ Cho các em quan sát tranh trong SGK, trao đổi với bạn cùng bàn
Hai nhân vật trong tranh là ai? (Minh và Nam)
Bạn Minh rủ Nam đi đâu? (Minh thì thầm rủ Nam:” Ngoài phố có gánh xiếc hay lắm bọn mình ra xem đi.”)
Thấy cổng bị khóa hai cậu bàn cách nào để trốn ra ngoài đi xem xiếc? (Minh bảo: cậu ta biết một lỗ tường thủng, hai đứa có thể trốn ra).
Từ việc trao đổi với các bạn cùng bàn qua các câu hỏi, các em HS yếu hơn đã biết nói được một số câu cơ bản từ đó các em khi trình bày tôi sẽ tiếp tục giúp đỡ các em để các em biết diễn đạt trôi chảy, rõ ràng, đồng thời tôi cũng đưa ra những yêu cầu phù hợp với các đối tượng HS của mình, bên cạnh đó cần động viên khích lệ những HS còn nhút nhát để các em biết ứng xử và nhận xét sự vật, hiện tượng trên những nhận thức riêng bằng sự cảm nhận ngây ngô dưới con mắt trẻ thơ để các em biết kể thành câu, thành đoạn văn theo cảm xúc suy nghĩ của mình.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Giáo dục thể chất
2
GDTC
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)