SKKN Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5
- Mã tài liệu: BM0125 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | 5 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 1526 |
Lượt tải: | 14 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Đặng Thị Thanh Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Ea Bông |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Đặng Thị Thanh Mai |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Ea Bông |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Tự nâng cao nhận thức bản thân.
– Biện pháp giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác với việc học bài ở nhà.
– Hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng kênh thông tin trên internet, ti vi để phục vụ và mở rộng bài học.
– Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt theo chủ điểm.
– Phối hợp với các lực lượng khác để theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
Mô tả sản phẩm
PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lí do chọn đề tài
Đã là một người giáo viên thỉ hẳn ai cũng biết đến câu nói: “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai.” Trẻ em chính là tương lai của đất nước. Một đất nước có phồn thịnh được hay không là nhờ vào thế hệ ấy.
Sinh thời Bác Hồ đã nói trẻ em là những mầm non là những người chủ tương lai của đất nước. Bác nói: “Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự cường tự lập.”
Ngày mai đất nước ta có phồn vinh, dân tộc có tự cường, tự lập hay không thì do nhiều yếu tố như gia đình, nhà trường, xã hội ngày hôm nay quyết định. Trong đó nền giáo dục đóng một vai trò đặc biệt quan trọng hình thành và phát triển mọi tri thức, nhân cách, đạo đức ở mỗi con người với nhiều cấp học từ bậc mầm non đến bậc đại học. Bậc Tiểu học là bậc học đặt những viên gạch tri thức đầu tiên để tạo nền móng xây nên những bức tường tri thức ở các cấp học sau và mỗi thầy giáo, cô giáo là một người thợ đặt những viên gach đầu tiên ấy. Như vậy để có móng chắc thì không chỉ có nguyên vật liệu tốt mà còn phải có kĩ thuật tốt.
Mặt khác để thực hiện được những mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng cộng sản Việt Nam về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là: Đào tạo đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, phải tạo cho được chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo, khắc phục cơ bản yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội, Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, có hiểu biết, có kĩ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để làm chủ bản thân, sống tốt làm việc hiệu quả, thực học, thực nghiệp.
Từ những vấn đề trên tôi nhận thấy nhiệm vụ của mình trong công tác giáo dục đó là không chỉ cung cấp cho các em tri thức, kĩ năng cơ bản là đọc, viết, tính toán mà phải hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện: đó là con người vừa có tài vừa có đức, biết yêu gia đình, yêu Tổ quốc, phát huy tối đa tiềm năng và khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân vì thế tôi đã chọn đề tài “ Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5.” Cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a/ Mục tiêu:
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm tôi thực hiện đề tài với mục tiêu sau:
-100% học sinh của lớp đạt về năng lực và phẩm chất của người học sinh -100% học sinh của lớp hoàn thành chương trình Tiểu học – Phát huy tối đa tiềm năng sẵn có trong mỗi học sinh.
– Phát huy tối đa tính tự chủ, tự giác, sáng tạo trong học tập ở mỗi học sinh.
– Giúp các em làm chủ kiến thức, có khả năng đánh giá bản thân và đánh giá người khác.
-Tạo niềm tin cho học sinh và gia đình đối với công tác giáo dục.
-Tạo sự đoàn kết trong tập thể học sinh.
– Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
b/ Nhiệm vụ
– Tìm ra biện pháp mới giúp nâng hiệu quả trong công tác giảng dạy, khắc phục những sai sót trong các biện pháp đã sử dụng.
-Ứng dụng cho bản thân và cho tập thể giáo viên khác trong trường.
3/ Đối tượng nghiên cứu
– Để công tác chủ nhiệm và giảng dạy đạt hiệu quả cao bản thân tôi đã chọn đối tượng nghiên cứu là:
+ Học sinh lớp 5A2 năm học 2019 – 2020 trường Tiểu học ….
+ Các giải pháp giáo dục của người giáo viên trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp.
4/ Giới hạn của đề tài
-Các giải pháp giáo dục của người giáo viên trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp.
– Học sinh khối lớp 5 năm học 2019 – 2020
5/ Phương pháp nghiên cứu -Phương pháp điều tra.
– Phương pháp nghiên cứu.
– Phương pháp đối chứng. -Phương pháp thực hành.
-Tổng kết, đúc kết kinh nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
1/ Cơ sở lý luận
Xét về đặc điểm tâm lí trẻ học sinh Tiểu học thì thường có tâm trạng vô tư, sảng khoái, vui tươi, đó cũng là điều kiện thuận lợi để giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức cũng như hình thành những phẩm chat trí tuệ cần thiết.
Xét về đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học: khi bước từ bậc mầm non lên các em chuyển từ hoạt động vui chơi làm chủ đạo sang hoạt động học tập làm chủ đạo, ở các lớp đầu cấp tư duy của các em chủ yếu là trực quan sinh động, đến lớp 4 và lớp 5 học sinh bắt đầu chuyển hoạt động học tập đóng vai trò chủ đạo và tư duy của các em cũng chuyển từ trực quan sinh động sang trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phân tích tổng hợp bắt đầu phát triển, các em bắt đầu bộc lộ ý thức tự giác, điểm mạnh của bản thân, hào hứng tích cực học tập cái mới, thích tự chủ hơn là bắt buộc, thích thực hành những điều đã học vào thực tế cũng như khám phá tri thức từ nhiều kênh khác nhau.
Một đặc điểm của học sinh nói chung và đặc điểm của học sinh Tiểu học nói riêng thay vì áp đặt học sinh thì ta tìm cách tạo cho học sinh có hứng thú học để học sinh tự giác hay chủ động học thì sẽ thu được kết quả cao hơn.
Lớp học có 30 học sinh là 30 tính cách khác nhau, tiểm năng ở mỗi học sinh là khác nhau. Nhiệm vụ của các nhà giáo dục là khơi gợi, phát hiện và bồi dưỡng giúp các em phát huy tối đa những tiềm năng đó. Điều đó đóng góp rất lớn trong việc các em có định hướng nghề nghiệp sau này.
Mặt khác đặc thù ở bậc Tiểu học giáo viên chủ nhiệm cũng đồng thời là giáo viên giảng dạy nhiều môn học ở lớp đó nên có điều kiện gần gũi, tiếp xúc nhiều với học sinh so với các giáo viên bộ môn đó là một thuận lợi trong việc chúng ta phát hiện và bồi dưỡng khả năng học tập cũng như giao tiếp hay điều chỉnh các mặt về phẩm chất ở mỗi học sinh.
Để học sinh phát triển toàn diện thì đòi hỏi mỗi một giáo viên không chỉ có tri thức về mọi mặt, về mặt tâm lý giáo dục mà phải còn có cả kĩ năng sư phạm cần thiết, áp dụng sáng tạo các phương pháp giáo dục. Luôn luôn tìm tòi những biện pháp giáo dục phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Giúp các em bộc lộ và phát triển tối đa những tiềm năng của bản thân, tạo cho các em hứng thú trong học tập, tạo cơ hội cho các em phát huy khả năng sáng tạo.
2/ Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy, tôi thấy thực tế có một số vấn đề như sau:
2.1/ Về phía giáo viên a/ Giáo viên qúa đặt nặng kiến thức.
Tâm lí giáo viên khi giảng dạy ai cũng mong học sinh của mình học tốt và lo lắng tìm mọi cách cố gắng giúp đỡ, phụ đạo giúp đỡ các em theo tiêu trí của mình mà bỏ quên mất việc phát huy năng lực sẵn có ở học sinh.
Ví dụ: có một số học sinh khả năng về tính toán hay giải toán có lời văn còn ở mức cần cố gắng nhưng lại có năng khiếu tốt về múa, hát. Lẽ ra giáo viên vừa phải hướng, dẫn phụ đạo cho em đó đạt môn toán ở mức chuẩn, vừa khích lệ để em đó phát huy khả năng múa hát. Nhưng giáo viên lại luôn tìm mọi cách để học sinh đó phải học môn Toán cho đạt bằng với bạn ở cuối mức hoàn thành, làm cho em học sinh đó không tự tin ở bản thân, luôn thấy mình kém hơn so với các bạn mải tập trung lo học môn Toán mà quên mất mình hát rất hay. b/ Giáo viên chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh khi học bài ở nhà.
Thông thường sau khi học xong một bài học trên lớp giáo viên thường giao nhiệm vụ học tập khi ở nhà như học thuộc bài cũ, xem trước bài mới tiết học sau và không quên kiểm tra lại việc thực hiện nhiệm vụ đó. Vì vậy khiến mục tiêu học tập của học sinh khi ở nhà là để cô kiểm tra cho nên học với thái độ bắt buộc, học cho có, học để tránh bị cô nhắc nhở và nhiều em học sinh không thích học và nhất định không học bài cũ nên thu được hiệu quả chưa cao.
2.2/ Về thực trạng học sinh năm học ….
Năm học …, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A2, với sĩ số lớp là 28 em, trong đó có 5 học sinh là học sinh dân tộc thiểu số 1 học em học sinh có bệnh lí nền trí nhớ không tốt. Thông qua việc thảo luận với giáo viên dạy năm trước và 2 tuần dạy thực tế bản thân đã theo dõi và phát hiện thấy ở học sinh còn một số mặt tồn tại như sau:
a/ Học sinh chưa phát huy được phẩm chất chăm chỉ, tự giác.
Học sinh tuổi còn nhỏ khó tránh khỏi đôi lúc các em còn lười biếng hay ham vui bê trễ việc học tập hoặc chưa cố gắng hết mình, đôi lúc học cho xong soạn sách vở qua loa nên khi đến lớp vẫn còn tình trạng không thuộc bài cũ, chưa hoàn thành bài tập, quên sách vở, đồ dùng học tập.
b/ Học sinh còn có tính ỉ lại
Ở lớp ngoài những hoạt động học mà mỗi cá nhân tự hoàn thành thì còn một số hoạt động theo nhóm, tổ một số học sinh đã hợp tác tốt với bạn nhưng còn một số em còn ỉ lại cho bạn, không chịu suy nghĩ tìm tòi, như vậy chưa phát huy được tính tự chủ, tự giác của bản thân và chưa hợp tác trong học tập. c/ Học sinh còn bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin.
Ngày nay sự phát triển chóng mặt của Khoa công nghệ thông tin, đời sống người dân nâng cao nên 50% các hộ gia đình người dân đã kéo được mạng Internet, có ti vi thông minh, máy vi tính. Số gia đình ở sâu hơn đường dây mạng internet chưa đến được thì đều có điện thoại thông minh chạy bằng sóng 3G, 4G điều đó giúp các em được tiếp xúc với công nghệ sớm. Một em bé 3 tuổi chưa biết chữ cũng biết cầm điện thoại mở và tìm một số chương trình mình yêu thích như phim hoạt hình, các câu truyện cổ tích, các em không chỉ được nghe các truyện cổ tích bằng lời mà còn được xem diễn bằng hành động. Nhưng bên cạnh mặt tốt mà nó mang lại thì nhiều chương trình phim hoạt hình khiến các em đam mê mà quên mất nhiệm vụ học hành. Chưa kể đến các em còn học theo thói xấu trong những chương trình không lành mạnh trên mạng như em bé 5 tuổi đã thiệt mạng vì học theo cách thắt cổ trong game.
d/ Về tình hình học tập chung của các em a/ Về học tập
T HS Hoàn thành tốt Tỉ lệ Hoàn thành Tỉ lệ Cần cố gắng Tỉ lệ
34 0 0% 22 58,8% 12 47,2%
b/Năng lực
Tổng số
HS Tốt Tỉ lệ Đạt Tỉ lệ Chưa đạt Tỉ lệ
34 0 0% 22 58,8% 12 47,2%
c/ Về phẩm chất
Tổng số
HS Tốt Tỉ lệ Đạt Tỉ lệ Chưa đạt Tỉ lệ
34 3 0% 29 58,8% 2 47,2%
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số học sinh cần cố gắng trong học tập và chưa đạt về năng lực còn cao, số học sinh ở mức tốt còn ít.
2.3/ Về thực trạng các thông tin trong sách giáo khoa.
a/ Các thông tin đã không còn đúng với thực tế.
Chủ chương thay sách giáo khoa của Bộ giáo dục năm 2000 và bộ sách giáo khoa lớp 5 hiện tại học sinh đang học xuất bản năm 2004 nên có nhiều bài số liệu đã không phù hợp với thực tế thời điểm giảng dạy đặc biệt là đối với phần kinh tế và dân số ở môn Địa Lí.
Ví dụ1 : Bài 8. Dân số nước ta (sách giáo khoa trang 81)
Ta thấy Bảng số liệu về dân số các nước Đông Nam Á được thống kê từ năm 2004 là: BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2004)
STT Tên nước Số dân ( triệu người) STT Tên nước Số dân (triệu người)
1
2
3
4
5
6 In-đô-nê-xi-a
Phi-lip-pin
Việt Nam
Thái Lan
Mi-a-ma
Ma-lai-xi-a 218,7
83,7
82,0
63,8
50,1
25,6 7
8
9
10
11 Cam -pu-chia
Lào
Xin-ga-po
Đông-ti-mo
Bru-nây 13,1
5,8
4,2
0,8
0,4
Năm 2019 chỉ còn dân số của nước Bru-nây là giữ nguyên là 0,4 triệu người còn lại 10 nước khác số dân đã thay đổi.
Ví dụ 2: Bài Châu Á (tiếp theo) Sách giáo khoa trang 105 – 106. Ta thấy: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á.
Hình 5: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á.
Nhìn vào lược đồ ta thấy công nghệ sản xuất ô tô chỉ có ở các nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhưng đến năm 2020 đã có 17/41 nước sản xuất được ô tô. Sự thay đổi phát triển từng ngày của nền kinh tế nếu giáo viên và học sinh không cập nhật thì bài học sẽ không phù hợp với thực tế.
b/ Tư liệu trong sách giáo khoa không đủ để minh họa cho nội dung kiến thức.
Sách giáo khoa in ấn và phát hành chỉ được những nội dung cơ bản và một số hình ảnh minh họa chỉ mang tính đại diện nên đối với một số bài học các tư liệu, hình ảnh trong sách giáo khoa không sống động điều đó làm giảm đi hứng thú trong quá trình học của học sinh.
Ví dụ 3: Trong phân môn Lịch sử bài 10. Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập (Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí trang 21, 22) ngoài một số nội dung cơ bản mà sách giáo khoa cung cấp thì còn có hai bức tranh: Hình 1 trang 21 và hình 2 trang 22.
Hình 1. Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (ngày 2-9-1945)
Hình 2: Bác hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945)
Dựa vào đó học sinh nắm bài qua kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa và thông qua cách tổ chức và truyền tải của giáo viên. Điều đó chưa đủ vì nó không làm sống động được khung cảnh lúc bấy giờ, học sinh không được nghe trực tiếp giọng nói truyền cảm và ấm áp, thân thiện của Bác Hồ, làm cho việc ghi nhớ bài chưa sâu và giảm hiệu quả bài học.
2.4 /Về phía phụ huynh a/ Chưa hướng được cho con sử dụng mạng internet một cách khoa học, hiệu quả.
Thời buổi khoa học công nghệ phát triển mạnh đa phần các gia đình rất quan tâm đến con em mình, cho con em tiếp cận quá nhiều với mạng internet mà không chắt lọc hướng cho con em sử dụng những nội dung hữu ích mà để các em xem đủ thứ trong đó có những vấn đề không lành mạnh, học theo những trò bạo lực trong game. Việc đó không chỉ ảnh hưởng đến học tập mà còn ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức của học sinh.
b/ Phụ huynh còn có quan điểm coi trọng môn này mà không coi trọng môn kia
Đại đa số các bậc phụ huynh coi trong các môn học như Toán và Tiếng Việt nên chỉ chú trọng quan tâm, nhắc nhở hay kiểm tra đối với các môn học đó điều này tạo cho học sinh thói quen chỉ chú trọng học Toán và Tiếng Việt mà không trú trọng hoặc học qua loa các môn học còn lại như Khoa Học, Địa Lí và Lịch Sử, Đạo Đức, …. Việc đó ảnh hưởng lớn đến sự phát huy một số năng lực đặc thù theo môn học của học sinh.
c/ Điều kiện kinh tế khó khăn
Một số gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn nên bố mẹ đều đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà nên việc nhắc nhở, khích lệ con em không kịp thời.
3/ Nội dung và hình thức của giải pháp
Qua việc tìm hiểu và nắm bắt được các thông tin trên giúp tôi nắm được thực trạng của học sinh trong lớp, và tôi bắt đầu tìm tòi và lựa chọn những giải pháp giáo dục phù hợp nhằm nâng cao tối đa hiệu quả giáo dục.
a/ Mục tiêu của giải pháp
-Giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác đối với việc học bài khi ở nhà.
– Giúp học sinh sử dụng kênh thông tin trên tivi, internet, sách báo nhằm phục vụ và mở rộng bài học.
– Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt chủ điểm.
– Khơi gợi và phát huy tối đa mọi năng lực, phẩm chất của học sinh.
b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp *Giải pháp 1:Tự nâng cao nhận thức bản thân.
Để nâng cao chất lượng giáo dục trước hết tôi thấy mình còn đặt nặng kiến thức mà chưa phát huy tối đa được các năng lực sẵn có của học sinh. Tôi đã tự khắc phục khiếm khuyết đó bằng cách:
+ Chăm chỉ học hỏi tích lũy kinh nghiệm từ các đồng nghiệp trong trường.
+ Thường xuyên bồi dưỡng năng lực thông qua nhiều kênh truyền thông. + Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
+ Áp dụng công nghệ khoa học thông tin vào giảng dạy.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]