SKKN Biện pháp phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong công tác chủ nhiệm
- Mã tài liệu: MT0048 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 893 |
Lượt tải: | 12 |
Số trang: | 45 |
Tác giả: | Trần Thị Bảo Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Anh Sơn 2 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 45 |
Tác giả: | Trần Thị Bảo Ngọc |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THPT Anh Sơn 2 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Biện pháp phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong công tác chủ nhiệm“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Phối hợp với gia đình để giáo dục toàn diện học sinh
– Phối hợp với các lực lượng xã hội để giáo dục trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh
– Sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa để học sinh có điều kiện học tập tốt
Mô tả sản phẩm
PHẦN MỘT
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 GVCN là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lí và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh; là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Không chỉ đưa ra những định hướng, mục tiêu giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm, GVCN là người trực tiếp tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu hiệu quả. Vì lẽ trên, phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường là trách nhiệm, đồng thời là biện pháp quan trọng trong công tác chủ nhiệm.
1.2. Tâm lí học hiện đại khẳng định rằng, sự phát triển nhân cách của con người chịu sự chi phối của bốn yếu tố là di truyền, giáo dục, môi trường, tự thân vận động (bao gồm hoạt động và giao tiếp). Cả bốn yếu tố này đều quan trọng, đều đóng vai trò nền tảng, cơ bản. Cá nhân sẽ phát triển ở mức độ tối đa nếu cả bốn nhân tố được phát huy triệt để. Nếu nhìn theo góc độ biện chứng thì gia đình, nhà trường và xã hội là hạt nhân của ba yếu tố đầu. Học sinh có điều kiện tốt nếu từng nhân tố tích cực, và sẽ thực sự lí tưởng nếu các yếu tố này phối hợp hài hòa với nhau. Khai thác mối quan hệ này như thế nào cho hiệu quả trong giáo dục? Điều đó thuộc về trách nhiệm và tài năng của GVCN.
1.3. Việc phối hợp các lực lượng giáo dục gồm gia đình, nhà trường, xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động giáo dục. Mỗi lực lượng có cách thức và ưu thế riêng mang đến sự phát triển tâm lí, nhân cách cho học sinh nên cần phối hợp chặt chẽ cả ba lực lượng này. Sự phối hợp này càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả thì việc tư vấn, hỗ trợ cho học sinh càng đạt kết quả cao. Do đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật, yêu cầu cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục và dạy học học sinh luôn được nhấn mạnh. Cụ thể là:
Tại khoản 2, Điều 3 Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, ngày 14 tháng 6 năm 2019 đã khẳng định: “Hoạt động giáo dục được thực hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Khoản 3 điều 16 quy định: Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT ……….” làm đề tài sáng kiến.
2. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục là một vấn đề được nhiều người quan tâm bởi đó là một nguyên tắc trong công tác giáo dục. Qua khảo sát, tìm hiểu tài liệu, chúng tôi nhận thấy các đề tài triển khai theo các hướng sau:
– Hướng thứ nhất: Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với gia đình trong giáo dục trẻ mầm non/tiểu học.
– Hướng thứ hai: Hiệu trưởng với công tác phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh.
– Hướng thứ 3: Một số đề tài có quan tâm đến việc phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, tuy nhiên nội dung, biện pháp còn chung chung, mang tính truyền thống.
– Hướng thứ 4: Các giáo viên chủ nhiệm quan tâm nhiều đến công tác phối hợp với gia đình, chưa chú trọng đến các lực lượng xã hội khác.
Vì vậy, đề tài của chúng tôi hướng tới những điểm mới sau đây:
– Đối tượng phối hợp là các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, bao gồm gia đình, các tổ chức, cá nhân có thể tham gia giáo dục học sinh.
– Các biện pháp phối hợp mới mẻ, phối hợp giữa GVCN và gia đình tập trung vào sự hài hòa và thấu hiểu giữa thầy cô- bố mẹ- học sinh; phối hợp với các lực lượng xã hội tập trung vào giáo dục kĩ năng, hướng nghiệp.
– Toàn bộ nội dung đề tài là những bước đi sớm phù hợp, đúng chiều, đúng hướng với việc triển khai chương trình GDPT 2018 (giáo dục kĩ năng, hướng nghiệp gắn với sự đồng thuận của xã hội).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện và hoàn thành đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu (cơ bản) sau:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận
– Phương pháp điều tra
– Phương pháp phân tích số liệu
– Phương pháp thực nghiệm sư phạm
4. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần Nội dung đề tài được triển khai như sau:
– Cơ sở khoa học của đề tài
– Nội dung, phương pháp phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
– Kết quả đề tài
PHẦN HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Khái niệm phối hợp
Theo Từ điển tiếng Việt, phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc chung nhằm đạt mục tiêu đã định.
Phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài trường hay huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển giáo dục là quá trình vận động (động viên, khuyến khích, thu hút) và tổ chức mọi thành viên trong cộng đồng tham gia vào việc xây dựng và phát triển nhà trường, từ việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học, chăm lo đời sống giáo viên, tạo môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường– gia đình– xã hội, đến việc tham gia giáo dục học sinh.
1.1.2. Vị trí, vai trò của GVCN lớp
Theo Điều lệ trường phổ thông, GVCN lớp là nhà giáo được giao trách nhiệm tổ chức, quản lý, giáo dục một lớp HS ngoài những giờ lên lớp của giáo viên bộ môn trong trường. GVCN có vị trí, vai trò như sau:
– GVCN lớp là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường quản lí, giáo dục toàn diện HS một lớp;
– GVCN là người tổ chức, lãnh đạo; kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ của HS thuộc lớp mình phụ trách;
– GVCN lớp là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã hội trong và ngoài trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục.
1.1.3. Vai trò của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
1.1.3.1. Khái niệm các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
Như chúng ta biết, các lực lượng giáo dục là tất cả các tổ chức, cá nhân có vai trò, trách nhiệm tham gia vào hoạt động giáo dục, trong xã hội ta hiện nay có các lực lượng giáo dục trong nhà trường và các lực lượng trong nhà trường. Các lực lượng giáo dục trong nhà trường thường được nhắc đến là Đoàn thanh niên, Công đoàn, Tổ chuyên môn… Trong phạm vi đề tài, chúng tôi không đề cập đến các lực lượng này mà đề cập đến các lực lượng giáo dục trong nhà trường.
Các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường là gia đình, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, các cơ quan, doanh nghiệp… có vai trò, trách nhiệm phối hợp xây dựng nhà trường, phát triển giáo dục.
Các tổ chức chính trị xã hội ngoài nhà trường là Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Công an, UBND phường/xã… ; các lực lượng khác có thể kể đến các doanh nghiệp, xí nghiệp…
1.1.3.2.Vai trò, trách nhiệm và quyền của gia đình trong công tác giáo dục
Chúng ta đều biết rằng, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của đứa trẻ, gia đình có trách nhiệm đầu tiên trong giáo dục con cái. Khi trẻ đi học, gia đình còn là môi trường để trẻ thực hành những điều đã học ở trường, rèn luyện hành vi,… Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đối với đứa trẻ có ý nghĩa sâu sắc không chỉ khi trẻ còn nhỏ mà ngay cả lúc trưởng thành. Cha mẹ học sinh (CMHS) là “người thầy đầu tiên” của con cái họ, là người xây dựng nền tảng nhân cách trẻ em. Nhiều nét cơ bản của nhân cách như tính người, tình người, đều bắt đầu ngay từ gia đình và từ giáo dục mầm non, tiểu học. Trẻ em tiếp xúc với các chuẩn mực đạo đức, các thói quen ứng xử đầu tiên từ gia đình, mọi sự kiện xã hội được trẻ em lĩnh hội qua thái độ và tình cảm của những thành viên trong gia đình, qua những định hướng giá trị của những người ruột thịt. Gia đình và giáo dục gia đình là một giá trị hết sức đặc trưng của nhân loại, nhất là ở phương Đông từ xưa tới nay. Giáo dục gia đình có những điểm mạnh. Đó là tính xúc cảm cao, tính linh hoạt, tính thiết thực, thích ứng nhanh nhạy giữa yêu cầu của cuộc sống và đối tượng giáo dục là con cái. Cùng với các giá trị của giáo dục gia đình, những điểm mạnh này có thể bổ sung cho giáo dục nhà trường góp phần hoàn thiện quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Về trách nhiệm của gia đình, cha mẹ học sinh, Điều 91 Luật giáo dục quy định như sau:
1. Tiếp nhận thông tin về kết quả học tập, rèn luyện của con hoặc người được giám hộ.
2. Tham gia hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường; tham gia hoạt động của ban đại diện cha mẹ học sinh trong nhà trường.
3. Phối hợp với nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc giáo dục con hoặc người được giám hộ theo quy định.
Bên cạnh trách nhiệm của mỗi gia đình, trong mỗi trường, lớp còn có Ban đại diện CMHS. Ban đại diện CMHS có tầm quan trọng đặc biệt, là một trong các giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong sự nghiệp giáo dục. Qua Ban đại diện CMHS, gia đình tham gia công tác giáo dục một cách có tổ chức, tiếng nói của gia đình với nhà trường tăng “trọng lượng”, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể CMHS tham gia vào các hoạt động giáo dục và xây dựng nhà trường. Ban đại diện CMHS là lực lượng xã hội gần gũi, gắn bó nhất của nhà trường, giúp đỡ đắc lực nhà trường về nhiều mặt, là lực lượng phối hợp thường xuyên, liên tục nhất. Ban đại diện CMHS tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa nhà trường và CMHS để liên lạc với nhau tốt hơn, làm tăng tinh thần trách nhiệm của các bậc cha mẹ, khích lệ lao động sư phạm của giáo viên và học tập của học sinh. Ban đại diện CMHS chăm lo bảo vệ những quyền lợi của học sinh, của nhà trường và thông báo cho CMHS tất cả những gì liên quan đến giáo dục, học tập của học sinh. Hỗ trợ nhà trường trong việc bảo dưỡng hoặc mua sắm các phương tiện và đồ dùng dạy học. Ban đại diện CMHS là đại diện của CMHS ở địa phương, tham dự lễ hội nhà trường hàng năm. Ban đại diện không chỉ là cầu nối giữa nhà trường và gia đình mà trong nhiều trường hợp còn là cầu nối, là điểm tựa trong quan hệ giữa nhà trường với các lực lượng xã hội khác ngoài trường, kể cả trong công tác của trường với cấp ủy và chính quyền địa phương.
Về trách nhiệm của Ban đại diện CMHS, Điều 92 Luật giáo dục quy định “Ban đại diện cha mẹ học sinh, trẻ mầm non được tổ chức trong mỗi năm học ở giáo dục phổ thông và giáo dục mầm non, do cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh, trẻ mầm non từng lớp, từng trường cử ra để phối hợp với nhà trường trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục học sinh, trẻ mầm non và hoạt động theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.”
1.1.3.3. Vai trò, trách nhiệm và quyền của xã hội
Xã hội là một danh từ trừu tượng, chỉ “hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài người ở một trình độ phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định”. Ý nghĩa khác của xã hội được hiểu là “đông đảo những người cùng sống một thời”.
Theo cách dùng của đề tài, chúng tôi đề cập khái niệm xã hội là những tổ chức, cá nhân ngoài nhà trường, ngoài gia đình có khả năng, có quyền, có trách nhiệm hỗ trợ, hợp tác để nâng cao chất lượng giáo dục.
Cũng theo quy định của Luật Giáo dục, Điều 93 có viết “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm sau đây:
a) Hỗ trợ, hợp tác với nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học; tạo điều kiện cho nhà giáo và người học tham quan, hoạt động trải nghiệm, thực tập, nghiên cứu khoa học;
b) Tham gia xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, ngăn chặn hoạt động có ảnh hưởng xấu đến người học;
c) Tạo điều kiện để công dân trong độ tuổi quy định thực hiện nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục, hoàn thành giáo dục bắt buộc để người học được vui chơi, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao lành mạnh;
d) Hỗ trợ các nguồn lực cho phát triển sự nghiệp giáo dục theo khả năng của mình.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Thực trạng về nhận thức tầm quan trọng của công tác phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
Là những người làm công tác giáo dục, tất cả các giáo viên, trong đó có GVCN đều được đào tạo cơ bản về lí luận, trong đó có triết học và tâm lí học. Tất cả đều khẳng định rằng, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, quá trình giáo dục của một con người trải qua ba yếu tố: giáo dục của gia đình, giáo dục của nhà trường, giáo dục của xã hội… Vì vậy, việc nhận thức tầm quan trọng của công tác phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường đối với giáo dục học sinh là một sự hiển nhiên, như nhận thức rằng nước và không khí cần cho sự sống. Thực tế cũng cho thấy, tất cả GVCN đều mong muốn nhận được sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả từ gia đình học sinh, các tổ chức đoàn thể ngoài nhà trường, sự quan tâm của chính quyền địa phương trên địa bàn, các doanh nghiệp….
Để khẳng định điều này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trong 42 GVCN ở trường THPT Hà Huy Tập, và kết quả như sau:
Hầu hết các giáo viên đều nhận thức được rằng, gia đình là môi trường giáo dục- lực lượng giáo dục đầu tiên, ảnh hưởng đến đứa trẻ- trước hết là ảnh hưởng của cha mẹ một cách sâu sắc. Vì vậy, giáo dục gia đình đã trở thành một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ em. Song giáo dục gia đình có những đặc trưng riêng của nó, nên vấn đề đặt ra là nhà trường phải liên kết với gia đình như thế nào để đảm bảo được tính thống nhất toàn vẹn của quá trình giáo dục thì giáo dục gia đình mới phát huy được ảnh hưởng và cùng với nhà trường giáo dục học sinh có hiệu quả. Chính GVCN là người thay mặt nhà trường thực hiện sự phối hợp này. Mỗi gia đình là một đơn vị độc đáo, có hoàn cảnh và lối sống riêng. Vì vậy, phối hợp cùng gia đình đòi hỏi người GVCN có sự hiểu biết và có nhiều biện pháp đa dạng để cùng phụ huynh đồng hành giáo dục học sinh có hiệu quả.
Trên thực tế, vẫn còn những giáo viên cho rằng công việc chính của họ là dạy học, họ không có trách nhiệm phải xây dựng mối quan hệ với cha mẹ học sinh vì điều đó làm mất nhiều thời gian và công sức. Thậm chí, có giáo viên còn đặt cha mẹ học sinh vào mối quan hệ căng thẳng, gay gắt khi hai bên không đồng thuận trong giáo dục học sinh. Mặt khác, công tác với cha mẹ học sinh ở không ít trường còn thiếu tính hợp tác, xây dựng. Còn có hiện tượng giáo viên thờ ơ, tính toán và thiếu công bằng trong đối xử với người học. Điều này làm cho cha mẹ học sinh, xã hội và chính các em thiếu tin cậy vào thầy cô, nhà trường.
Bên cạnh đó, còn thấy một thực trạng là nhiều giáo viên không nhận thức hết tầm quan trọng của công tác phối hợp với các lực lượng giáo dục khác (ngoài gia đình). Các đồng nghiệp của chúng tôi ít khi nghĩ đến các lực lượng này, trừ những trường hợp phải phối hợp bắt buộc, mang tính chất bị động (như học sinh vi phạm luật giao thông GVCN phải phối hợp với công an, học sinh học nghề thì GVCN phải liên hệ với trung tâm hướng nghiệp).
Cũng trong quá trình tìm hiểu thực trạng nhận thức của GVCN về tầm quan trọng công tác phối hợp, chúng tôi có tiến hành khảo sát nhận thức về tầm quan trọng phối hợp từ phía gia đình. Kết quả khảo sát như sau:
Các gia đình hiện đại, đặc biệt ở thành phố, như thành phố Vinh là một ví dụ, chịu nhiều ảnh hưởng của đời sống kinh tế thị trường cũng như nhu cầu về tự do cá nhân, sự bình đẳng và dân chủ. Đó là một thách thức với sự ổn định của gia đình và sự bình yên của các em. Mặt khác, còn không ít cha mẹ do chưa nhận thức đầy đủ về ảnh hưởng của gia đình đối với sự phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ và lối sống của con em nên chưa thực sự quan tâm đến việc tổ chức cuộc sống và văn hóa gia đình. Một bộ phận đáng kể phụ huynh hiện nay chưa nhận thức đầy đủ về sự phối hợp và ảnh hưởng lẫn nhau của giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình. Vì thế nhiều cha mẹ tham gia với hoạt động của nhà trường một cách thụ động và hình thức. Họ đổ lỗi hoàn toàn cho giáo viên khi con phát triển không như mong đợi,
Việc phối hợp các lực lượng giáo dục luôn hướng đến mục tiêu cuối cùng là vì sự phát triển của học sinh, và các em là người thụ hưởng trực tiếp những kết quả phối hợp đó. Nếu các em nhận thấy giữa giáo viên và cha mẹ mình có sự tôn trọng, thống nhất và phối hợp chặt chẽ với nhau thì bản thân các em cũng tin tưởng giáo viên và nỗ lực nhiều hơn trong học tập, rèn luyện. Nhưng nếu học sinh biết rằng giáo viên và cha mẹ không thường xuyên trao đổi, thậm chí xung đột, bất hợp tác với nhau sẽ khiến nhiều học sinh có khuynh hướng chống lại giáo viên hoặc có vấn đề về hành vi trong lớp học. Điều đó có ảnh hưởng tiêu cực, làm giảm rõ rệt hiệu quả giáo dục và dạy học và kết quả là chính học sinh mới là người chịu thiệt thòi nhất.
Như vậy, sự phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường có ý nghĩa quan trọng, vừa là một trách nhiệm của nhà trường (giáo viên), đồng thời vừa là một trong những con đường, cách thức hiệu quả, bền vững để giáo dục học sinh.
1.2.2. Thực trạng về cách thức phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, các GVCN đã có nhiều các thức phối hợp. Qua quan sát, điều tra cũng như kinh nghiệm thực tiễn, chúng tôi tổng hợp được các hướng đồng nghiệp và bản thân đã từng tiến hành như sau.
1.2.2.1. Phối hợp với phụ huynh
* Thông qua các phiên họp phụ huynh định kì
Trong một năm học, GVCN dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu thường tổ chức họp phụ huynh định kì ba phiên: đầu năm học, hết học kì I, cuối năm học.
Nội dung và cách thức tiến hành buổi họp truyền thống thường là:
– Ổn định tổ chức
– GVCN thông qua báo cáo của nhà trường
– GVCN triển khai các nội dung của lớp:
+ Tình hình học tập của học sinh
+ Tình hình tham gia các hoạt động tập thể của học sinh
+ Các khoản đóng nộp
– Thảo luận của phụ huynh
Đây là cách làm truyền thống, giúp GVCN truyền đạt đầy đủ, chính xác chủ trương của nhà trường, kết quả học tập phấn đấu của học sinh đến từng phụ huynh. Tuy nhiên, ăn vào tiềm thức của tất cả các phụ huynh khi đi họp chỉ có hai vấn đề: (1) con mình học như thế nào, so với các bạn cùng lớp ra sao? (2) đóng bao nhiêu tiền cho học kì này? Quá trình làm chủ nhiệm, chúng tôi đã nhận được nhiều lời xin phép vắng họp của phụ huynh là: “Hôm nay bố mẹ có việc bận và tổng các khoản đóng nộp bao nhiêu bố/mẹ sẽ nộp đủ.”
Cũng vì ăn sâu vào tiềm thức quan niệm chuyện họp phụ huynh chỉ là thủ tục, họp để nộp tiền nên phụ huynh vắng họp, người thân như ông bà, cô dì đi thay. Hoặc là họp phụ huynh lấy lệ, không muốn bỏ thời gian, một phu huynh họp cho hai con học ở hai lớp khác nhau trong trường. Thậm chí còn hiện tượng thuê người họp thay bố mẹ.
Do đó, một cơ hội để bố mẹ hiểu con, thầy cô hiểu trò, từ đó bàn bạc các biện pháp phối hợp để học sinh có điều kiện học tập thuận lợi trong học kì, trong năm học…. gần như bị bỏ qua, bị từ chối.
* Thông qua sổ liên lạc
Sổ liên lạc truyền thống là sổ giấy, giữ mối liên hệ giữa GVCN với phụ huynh hàng tuần, được gửi về cho phụ huynh hàng cuối tuần để phụ huynh nắm bắt tình hình của con và tập thể lớp. Sổ liên lạc phổ biến ở cấp tiểu học, nhiều GVCN vẫn duy trì ở các lớp bậc THPT. Sổ liên lạc có nhiều mặt ưu điểm, nhưng hạn chế là thông tin định kì nên không kịp thời. Mặt khác, đã có nhiều hiện tượng trở thành giai thoại về việc học sinh biến báo, lừa dối phụ huynh khi có những lời nhận xét không hay từ sổ liên lạc. Vô tình, sổ liên lạc giấy trở thành mối lo của nhiều học sinh, đẩy các em vào nguy cơ thiếu trung thực.
Những năm gần đây, các GVCN ứng dụng công nghệ thông tin để duy trì liên lạc với phụ huynh, đó là việc sử dụng sổ liên lạc điện tử qua Vn.edu, lập các nhóm phụ huynh trên mạng xã hội như Zalo, Facebook…. Tuy nhiên, không phải tất cả các GVCN đều khai thác tốt hình thức liên lạc này.
* Thông qua ban đại diện hội CMHS
Thành lập hội CMHS không phải là sự sáng tạo của GVCN mà đang thực hiện theo điều lệ trường phổ thông. Hầu hết các GVCN đã phối hợp với ban đại diện hội CMHS để liên lạc với toàn thể phụ huynh, tạo môi trường học tập thuận lợi cho các con. Bên cạnh đó, còn tồn tại các hiện tượng sau:
Về việc bầu ban đại diện, buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm học, việc bầu chọn Ban đại diện của các cha mẹ học sinh đi họp thường diễn ra chóng vánh và hình thức.
Nhiều giáo viên chủ nhiệm phải vất vả vận động, thuyết phục, thậm chí là năn nỉ rất lâu mới có đủ người trong ban đại diện của lớp. Do vậy, nhiều ban đại diện được thành lập vì bị “bắt cóc”, vì nể cô, vì không ai chịu nhận.
Một khi Ban đại diện cha mẹ học sinh không tự nguyện, không nhiệt tình thì công tác hỗ trợ, phối hợp giữa ban đại diện và nhà trường gặp những lúng túng, khó khăn nhất định.
Vì vậy, thực tế hoạt động của ban đại diện có các vấn đề sau:
– Thứ nhất, rất nhiều ban đại diện hội CMHS được lập lên cho có thành phần, thủ tục, hoạt động không thực chất, không hiệu quả.
– Thứ hai, Ban đại diện hội CMHS chỉ hoạt động vào ngày lễ để chúc mừng thầy cô như ngày nhà giáo, lễ tết vì họ chưa xác định hết nhiệm vụ. Mức độ trách nhiệm, quan tâm của ban đại diện đến nhà trường, thầy cô giáo và giáo dục học sinh thường mờ nhạt, hạn chế.
– Thứ ba, một số ít Ban đại diện hội CMHS không hoạt động đúng trách nhiệm, trở thành cánh tay nối dài” của hiệu trưởng, chỉ là nơi để GVCN mượn lời, mượn danh nghĩa để thực hiện các khoản thu thỏa thuận như quỹ, xã hội hóa. Điều đó gây ra nhiều bức xúc cho tập thể phụ huynh.
Như vậy, công tác phối hợp với phụ huynh trong thời gian qua ở trường THPT Hà Huy Tập nói riêng cũng như trong phạm vi rộng đã thu được nhiều kết quả, tác động tích cực vào việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, hỗ trợ GVCN để dạy học và quản lí học sinh tốt hơn. Tuy nhiên, cách làm truyền thống còn một số hạn chế, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, tiềm năng của gia đình, chưa khai thác hết những lợi thế của công nghệ thông tin, đặc biệt là chưa kéo phụ huynh về gần hơn với nhà trường, với con. Đây là khoảng trống trong công tác chủ nhiệm cần bổ sung và phát triển.
1.2.2.2. Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác
Trong nhận thức của GVCN, các lực lượng giáo dục khác cũng có vai trò quan trọng, cần phối hợp để giáo dục học sinh tốt hơn, đặc biệt là giáo dục kĩ năng, trải nghiệm… Tìm hiểu về thực trạng phối hợp, kết quả khảo sát như sau:
1. Thầy/cô biết những lực lượng giáo dục nào ngoài nhà trường (trừ gia đình)?
12/42 GVCN Hội khuyến học, Hội phụ nữ
10/42 GVCN Mặt trận tổ quốc
04/42 GVCN Đoàn thanh niên tại địa phương
16/42 GVCN Không biết
4. Thầy / cô đã chủ động tổ chức những hoạt động, chương trình nào trong công tác phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường?
02/42 GVCN Liên hệ cho HS tham quan trải nghiệm tại các cơ sở lao động sản xuất
10/42 GVCN Tổ chức cho HS tham gia hoạt động công ích như: đền ơn đáp nghĩa, tuyên truyền phòng chống các tệ nạn XH..
07/42 GVCN Cùng Hội khuyến học, Hội phụ nữ địa phương tổ chức hoạt động giúp đỡ HS có hoàn cảnh khó khăn
30/42 GVCN Chưa chủ động tổ chức các hoạt động
Khá nhiều GVCN đều nghĩ việc phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường là chức năng của nhà trường, của Ban giám hiệu và các đoàn thể khác như Công đoàn, Đoàn thanh niên. Mỗi GVCN chỉ phối hợp khi được nhà trường giao nhiệm vụ ở mảng/phần nào đó, chẳng hạn như: vào ban liên lạc, vào khâu tổ chức, khâu quản lí nề nếp….
Do đó, việc phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường là một việc làm khá mới mẻ và tương đối khó khăn trong công tác chủ nhiệm.
2. NỘI DUNG, CÁCH THỨC PHỐI HỢP VỚI CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC NGOÀI NHÀ TRƯỜNG
2.1. PHỐI HỢP VỚI GIA ĐÌNH ĐỂ GIÁO DỤC TOÀN DIỆN HỌC SINH
Mục tiêu cao nhất của giáo dục nói chung và công tác chủ nhiệm với CMHS nói riêng là vì niềm vui và sự phát triển tốt nhất cho HS. Vì thế, sự phối hợp giữa GVCN và CMHS đảm bảo cho từng học sinh những điều kiện học tập phù hợp nhất có thể có, về cả vật chất lẫn tinh thần, trong đời sống và trong sinh hoạt của học sinh ở nhà trường, gia đình và các môi trường khác.
* Vì thế, nhiệm vụ cơ bản của công tác GVCN với CMHS bao gồm:
– Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của CMHS trong trong hoạt động giáo dục và dạy học.
– Tạo ra sự đồng thuận cao và hợp tác hiệu quả trong các tác động đến học tập, tu dưỡng của học sinh ở cả nhà trường, gia đình và xã hội trên cơ sở hiểu biết đặc điểm tâm lí và phát triển của học sinh nhằm đạt mục đích giáo dục đề ra.
– Đảm bảo cho từng học sinh những điều kiện học tập phù hợp nhất có thể, cả về vật chất và tinh thần, trong đời sống và sinh hoạt của học sinh ở nhà trường, gia đình và các môi trường khác.
Xuất phát từ mục tiêu trên, công tác phối hợp giữa nhà trường (giáo viên) với gia đình (CMHS) hướng đến thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
– Trao đổi với CMHS về mục tiêu giáo dục và kế hoạch học tập của con em họ trong cả năm học cũng như từng học kì;
– Thống nhất kế hoạch phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban đại diện CMHS về những tác động đến học sinh;
– Tổ chức phối hợp với cha mẹ quản lí và hỗ trợ việc học tập, rèn luyện của học sinh; xử lí thông tin phản hồi của cha mẹ học sinh.
*Với nhiệm vụ như vậy, công tác với CMHS cần đáp ứng hai yêu cầu tiên quyết:
Thứ nhất, sự phát triển của học sinh là mục tiêu chung của giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, là điểm kết nối giữa GVCN và CMHS. Vì thế, công tác của GVCN đối với CMHS phải xuất phát từ quyền lợi chính đáng của học sinh để thu hút sự tham gia và ủng hộ của họ với các hoạt động giáo dục của nhà trường cũng như củng cố và hỗ trợ giáo dục gia đình.
Thứ hai, công tác của GVCN với CMHS phải dựa trên sự đồng thuận và hợp tác có trách nhiệm của nhà trường. Điều đó vừa đòi hỏi sự hiểu biết, cảm thông, tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc. Trên cơ sở nội dung đó, chúng tôi đã có các cách thức phối hợp với gia đình học sinh hiệu quả.
2.1.1. Thiết lập kênh thông tin giữa GVCN và gia đình học sinh
Kênh thông tin ở đây được hiểu là cách thức mà giáo viên và CMHS sử dụng những phương tiện, điều kiện phù hợp để kết nối, tương tác, trao đổi các thông tin liên quan đến học sinh và nhà trường trong hoạt động dạy học, giáo dục.
Kênh thông tin được thiết lập bao gồm phương thức thông tin trực tiếp và thông tin gián tiếp. Phương thức thông tin trực tiếp là cách cung cấp, nắm bắt, phản hồi, trao đổi thông tin giữa giáo viên với CMHS trên cơ sở gặp gỡ, tương tác mặt đối mặt, không qua một lực lượng trung gian khác. Phương thức này bao gồm một số hình thức cơ bản như: 1 – Họp CMHS (định kì hoặc đột xuất); 2 – Gặp mặt, trao đổi riêng; 3 – Tọa đàm về các vấn đề liên quan đến dạy học, giáo dục. Phương thức thông tin gián tiếp là cách cung cấp, nắm bắt, trao đổi thông tin giữa giáo viên và CMHS thông qua yếu tố hoặc phương tiện trung gian,. Phương thức này được thực hiện bằng một số hình thức cụ thể như: 1 – Trao đổi thông tin qua thư điện tử hoặc mạng xã hội; 2 – Nhắn tin, gọi điện (cá nhân hoặc nhóm); 3 – Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng, các sự kiện, chương trình phòng ngừa, ấn phẩm báo, tạp chí, băng đĩa ghi âm, ghi hình, bảng hiệu, tờ rơi, pa – nô, áp – phích mô phỏng các hoạt động hoặc thông điệp của các hoạt động…
Qua quá trình làm công tác chủ nhiệm, chúng tôi nhận thấy CMHS chỉ chủ động liên lạc với giáo viên khi xin cho con nghỉ học, ít chủ động với những thông tin khác. Bên cạnh đó, nhiều giáo viên liên lạc với phụ huynh thường chỉ dừng ở mức thông báo kết quả học tập, kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh, vì thế khi giáo viên mời phụ huynh tới trường trao đổi tức là khi học sinh đã mắc lỗi. Như vậy, sự phối hợp với phụ huynh qua kênh thông tin liên lạc là giải quyết hậu quả, chứ ít mang tính chất dự phòng.
Cần phải xem thông tin liên lạc giữa GVCN với gia đình học sinh là một việc làm thiết yếu vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công của công tác giáo dục. Để tránh cứng nhắc, tránh gây phiền toái, cần nắm các nguyên tắc sau:
– Đảm bảo tính pháp lí: cần đảm bảo các căn cứ pháp lí của việc phối hợp nhà trường với gia đình trong giáo dục học sinh.
– Đảm bảo tính thống nhất, hợp tác: phối hợp giữa nhà trường và gia đình là quá trình hoạt động có tính thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, kênh thông tin, phối hợp với gia đình trong tư vấn, hỗ trợ học sinh được thiết lập, duy trì, phát triển cần có sự thống nhất, hợp tác giữa nhà trường và gia đình.
– Đảm bảo tính khả thi, hiệu quả: kênh thông tin, phối hợp với gia đình cần bảo đảm được thực thi một cách thuận lợi, đảm bảo quá trình trao đổi thông tin được thực hiện đạt kết quả tốt.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]