Hướng dẫn học sinh lớp 2 biết kể chuyện sáng tạo (Bộ sách Kết nối tri thức)
- Mã tài liệu: HT2015 Copy
Môn: | Tiếng Việt |
Lớp: | Lớp 2 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 1113 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 30 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Trang |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Trần Văn Ơn |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 30 |
Tác giả: | Lê Thị Thu Trang |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Trần Văn Ơn |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 2 biết kể chuyện sáng tạo (Bộ sách Kết nối tri thức)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
Biện pháp 1: Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý
Biện pháp 2: Sự chuẩn bị của giáo viên
Biện pháp 3: Giúp học sinh quan sát tranh – kể chuyện theo nhóm.
Biện pháp 4: Hình thành việc kể chuyện cá nhân
Biện pháp 5: Giúp học sinh đóng vai theo nội dung câu chuyện
Biện pháp 6: Giúp học sinh quan sát – nhận xét
Biện pháp 7: Phát động phong trào: “Thi kể chuyện trong các đợt thi đua”
Mô tả sản phẩm
1. Lý do chọn đề tài
Kể chuyện được coi là một bộ môn nghệ thuật có từ xa xưa. Nhiều thế hệ đã tiếp nhận được trong tuổi thơ ấu của mình những ấn tượng không bao giờ phai nhạt về những câu chuyện dân gian qua giọng kể của mẹ, của bà hoặc những người thân khác trong gia đình. Ngoài ra kể chuyện ở Tiểu học còn đem đến cho các em niềm vui, sự thích thú, thư giãn sau những giờ học căng thẳng. Những câu chuyện đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống của con người. Nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những mơ ước cao xa cùng với sự phát triển hài hoà, toàn diện của bản thân. Ngoài ra những truyện kể còn bồi dưỡng cho trẻ những tri thức thông thường về tự nhiên, xã hội. Kể chuyện còn là phân môn kích thích sự vận động linh hoạt của trí tuệ, mở ra cho các em những chân trời mới, cho trí tưởng tượng làm phong phú các hình thức màu sắc lý tưởng sống đang từng bước hình thành trong tâm trí trẻ em. Ánh mắt vui tươi, những tiếng cười sảng khoái, không khí nhộn nhịp, thư giãn trong giờ kể chuyện tạo ra sự gần gũi, cảm thông, lòng tin cậy giữa thầy cô và các em. Đặc biệt với những em còn rụt rè, nhút nhát, do bản thân hoặc do hoàn cảnh sống. Khi học tiết kể chuyện, các em sẽ có cơ hội gần gũi, hoà đồng với các bạn, các em được sống cùng những nhân vật trong truyện giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn. Đối với học sinh tiểu học, kể chuyện là môn học rất hấp dẫn và thường được các em học sinh chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng, vui thích. Xác định được tầm quan trọng của kể chuyện trong việc giáo dục đạo đức cũng như kĩ năng sống cho học sinh. Vì thế mà qua nhiều năm thực hiện chương trình, tôi rút ra được một vài kinh nghiệm mong được chia sẻ cùng với các bạn đồng nghiệp với đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 2 biết kể chuyện sáng tạo”.
2. Mục đích nghiên cứu
– Nâng cao hiệu quả dạy học kể chuyện lớp 2, góp phần đổi mới phương pháp dạy học phân môn kể chuyện ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
– Tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em nhận thấy tầm quan trọng của phân môn kể chuyện từ đó giáo dục động cơ học tập cho các em.
– Hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
– Hình thành kĩ năng kể chuyện cho các em, giúp các em diễn đạt tư tưởng tình cảm một cách rõ ràng, chính xác. Đó cũng là cơ sở để các em học tốt các môn học khác và bồi dưỡng những tình cảm đạo đức tốt đẹp.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu
Hướng dẫn học sinh lớp 2 biết kể chuyện sáng tạo thông qua kể chuyện theo tranh minh họa, các em biết kể lại nội dung cốt truyện bằng lời của mình kết hợp điệu bộ và giúp học sinh biết nhập vai các nhân vật trong từng câu chuyện kể.
- Đối tượng nghiên cứu
Hướng dẫn học sinh lớp 2 biết kể chuyện sáng tạo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
– Nghiên cứu tài liệu dạy học
– Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
– Dạy thực nghiệm
– Kiểm tra đánh giá trước và sau khi thực nghiệm
PHẦN II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vị trí của phân môn kể chuyện trong trường Tiểu học
Phân môn kể chuyện ở Tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói – tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích… nhưng điều quan trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh. Kể chuyện sáng tạo là hình thức kể chuyện học sinh phải nắm vững cốt truyện, sau đó kể lại câu chuyện đó bằng lời văn của mình với giọng kể một cách tự nhiên, điệu bộ thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên sống động hơn có sức thuyết phục người nghe. Biết dựa vào câu chuyện trong chừng mực vừa phải một số câu chữ của bản thân, làm cho câu chuyện thêm cụ thể. Có nhiều hình thức kể chuyện: kể chuyện bằng lời kể của mình, kể chuyện theo tranh, kể chuyện nhập vai…
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học
Tâm lý trẻ em đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi từ 1 đến 12 tuổi rất thích nghe kể chuyện. Chúng thường được nghe ông bà, cha mẹ, thầy cô kể những câu chuyện cổ tích có các nhân vật thật gần gũi với lứa tuổi của chúng. Đến lứa tuổi học sinh tiểu học cũng vậy: Nhu cầu vui chơi giải trí vẫn cao hơn nhu cầu học tập; nhu cầu ham thích nghe – viết vẫn cao hơn nhu cầu đọc – viết. So với lớp 1 việc học kể chuyện, học sinh chỉ học kể từng đoạn của câu chuyện đơn giản. Nhưng lên lớp 2 kể chuyện được đặt sau tiết tập đọc, học sinh dựa trên hình ảnh của tranh và trí nhớ của mình kết hợp với lời kể của cô giáo để kể lại từng đoạn của câu chuyện và kể toàn bộ câu chuyện. Chương trình dạy phân môn kể chuyện cũng dựa trên mục tiêu của dạy Tiếng Việt. Phân môn kể chuyện có nhiệm vụ hình thành và rèn cho học sinh những kỹ năng cơ bản: nghe và nói. Học sinh được nghe trong hội thoại: Nghe kết hợp kể được đoạn truyện, nói trong giao tiếp: Biết chào hỏi, cảm ơn… Tất cả những chuẩn mực của nhân cách con người về lòng trung thực, lẽ phải… những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cái đẹp của thiên nhiên con người Việt Nam… đều được xây dựng và lưu truyền qua các câu chuyện dành cho lứa tuổi học sinh, đặc biệt là lứa tuổi Tiểu học. Con đường để học sinh tiếp nhận tốt nhất và gần nhất là con đường học tập. Bên cạnh mục tiêu: rèn kỹ năng nghe và nói cho học sinh, phân môn kể chuyện còn rèn cho các em tính mạnh dạn, tự tin, vui vẻ, hoà nhã, năng động trong giao tiếp. Hơn nữa các em được củng cố, mở rộng, tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau dồi, kích thích hứng thú đọc và kể chuyện còn đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động học tập.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân môn kể chuyện và những yêu cầu dạy học phân môn này. Giáo viên phải thấy được “Việc dạy kể chuyện như thế nào để hấp dẫn, thu hút các em?”. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi ở người giáo viên phải có sự đầu tư bài dạy, lòng say mê nghề nghiệp, yêu trẻ, hiểu và nắm bắt được tâm lý trẻ em, phải biết được chúng cần gì và muốn gì ?
Vì vậy phân môn kể chuyện được dạy đúng với phương pháp bộ môn sẽ góp phần đắc lực vào việc rèn luyện các kĩ năng nghe nói của học sinh. Nhất là khi hướng dẫn học sinh kể chuyện theo cách sáng tạo lại rất phù hợp với phương pháp giáo dục hiện nay.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Căn cứ vào tình hình giảng dạy trực tiếp các em học sinh lớp 2, tôi thấy các lớp tôi chủ nhiệm có một số thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1. Thuận lợi
Như chúng ta đã biết, các câu chuyện kể trong tiết kể chuyện lớp 2 là những câu chuyện trong bài tập đọc đầu tuần chứ không phải là câu chuyện mới lạ. Chính điều này giúp học sinh có nhiều thuận lợi trong việc nhớ và thuộc nội dung câu chuyện. Các đồng chí giáo viên trong khối 2 được dự giờ góp ý giờ dạy, thao giảng thường xuyên và cùng các giáo viên khối khác tham gia cùng. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tự nghiên cứu các tài liệu, sách báo, học tập đồng nghiệp, vận dụng phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Trường tôi là trường có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Các phòng học có đủ đèn, quạt ánh sáng cho học sinh. Bàn ghế vừa tầm vóc học sinh. Đa số phụ huynh học sinh quan tâm nên học sinh có đầy đủ sách vở dùng để học tập.
2.2. Khó khăn
– Trong những năm vừa qua hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo lối dạy kể chuyện cũ. Giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ đặt câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? Là những nhân vật nào? Để cho các em nhớ lại theo đoạn và câu chuyện. Do đó các em hạn chế kĩ năng kể lại và nhận xét bạn kể. Điều đó chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh.
– Lớp tôi chủ nhiệm có nhiều học sinh nam, các em hiếu động, một số học sinh chưa chăm học, học còn yếu môn Tiếng việt nên tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập. Đồ dùng để phục vụ dạy và học phân môn kể chuyện chưa đầy đủ. Việc chuẩn bị bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu cầu, nội dung câu chuyện cần kể còn hạn chế. Từ đó dẫn đến học sinh chưa phân biệt được các mức độ: kể được bằng lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời trong câu chuyện. Các em diễn đạt chưa lưu loát, chưa biết thay đổi giọng phù hợp với nội dung câu chuyện, chưa biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ hỗ trợ cho lời kể. Vì vậy chưa phát huy được khả năng nói của học sinh trong giờ học kể chuyện.
2.3. Quá trình nghiên cứu từ thực tế và khảo sát trong giờ học kể chuyện lớp 2
2.3.1. Kết quả khảo sát thực tế của học sinh trước khi thực nghiệm:
+ Kết quả khảo sát chất lượng phân môn kể chuyện của học sinh lớp tôi trước khi thực hiện đề tài như sau:
Sĩ số | Học sinh kể và nhập vai tốt | Học sinh kể bằng hình thức đọc | Học sinh chưa thể hiện được vai diễn |
34 HS | 8 em = 23,5% | 14 em = 41,2% | 12 em = 35,3% |
Qua khảo sát từ phía học sinh thông qua môn kể chuyện tôi có những nhận xét sau:
– Nhiều em chưa hiểu được kể chuyện là phải hiểu nội dung cốt truyện mà đa số các em thuộc câu chuyện như một bài học thuộc lòng. Các em chưa nhập vai vào câu chuyện, khi tham gia kể chuyện theo nhóm vẫn còn một số em không kể mà chỉ một vài em trong nhóm kể lại bằng cách đọc lại nội dung tranh. các em chưa nói lên được suy nghĩ của mình về câu chuyện đó. Chưa dùng lời nói của mình để kể chuyện dù các em hiểu câu chuyện đó nhưng do bản tính nhút nhát quá nên em chưa nói lên được suy nghĩ của mình.
– Khi tôi tiến hành cho các em lên kể chuyện hầu hết các em ít xung phong mà giáo viên phải chỉ định. Khi kể các em chưa thể hiện được tâm trạng của mình cho phù với nội dung cốt truyện. Các em chưa biết diễn tả, cũng như điệu bộ, giọng kể để phù hợp của từng nhân vật trong câu chuyện.
– Việc phân nhóm đóng vai theo nhân vật trong câu chuyện được các em thích nhất. Các em rất thích xem các bạn thể hiện lại nội dung câu chuyện bằng cách đóng vai, nhưng các em lại không dám lên đóng vai. Đối với những em tham gia đóng vai thì các em chưa hoà mình vào nhân vật trong câu chuyện, chưa thể hiện được từng lời nói cũng như điệu bộ của vai mà mình đảm trách.
2.3.2. Kết quả của thực trạng trong dạy học phân môn kể chuyện
Trong quá trình giảng dạy ở trường, tôi thường xuyên dự giờ thăm lớp. Do khuôn khổ của đề tài có hạn tôi không trình bày được diễn biến các tiết học. Qua dự giờ các đồng chí trong tổ, tôi nhận xét như sau:
– Nhìn chung giáo viên đã thực hiện đầy đủ mục tiêu của bài học, kết hợp vừa rèn kỹ năng vừa cung cấp kiến thức. Giờ dạy thực hiện đầy đủ các bước, xác định đầy đủ kiến thức trọng tâm để truyền đạt cho học sinh, phát huy được tính tích cực của học sinh. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đã có hiệu quả, học sinh nắm kiến thức của bài học. Song bên cạnh còn bộc lộ hạn chế là giáo viên phụ thuộc nhiều vào hướng dẫn thiếu sáng tạo, linh động.
– Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trong giờ học còn đơn điệu, nghèo nàn. Sở dĩ có tình trạng trên là do bản thân mỗi đồng chí giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa tác dụng của phân môn kể chuyện.
Từ nhu cầu thực tế đặt ra tôi nhận thấy việc nghiên cứu, tìm tòi một vài biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 2 kể chuyện sáng tạo góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng là rất cần thiết.
3. CÁC BIỆN PHÁP
Qua nghiên cứu đề tài và khảo sát từ học sinh tôi đã nghiên cứu và vận dụng một số giải pháp giúp các em tham gia học tập tốt hơn trong tiết kể chuyện bằng phương pháp mới. Sau đây là một vài biện pháp mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy
3.1. Biện pháp 1: Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý
Như chúng ta vẫn biết: Trẻ em vốn thích nghe kể chuyện và tự kể chuyện. Chính vì thế để thu hút sự chú ý và tiếp thu một tiết kể chuyện thật thoải mái và đúng với yêu cầu đặt ra cho tiết kể chuyện thì tôi áp dụng phương pháp giảng dạy bằng cách bố trí chỗ ngồi không giống như các tiết học khác. Tôi cho các em ngồi thành nửa hình vòng tròn ngồi học trong tư thế thoải mái để có sự gần gũi tình cảm trong không gian mới. Cùng nhau giao lưu học hỏi lẫn nhau, cùng chia sẻ những vui buồn, lo lắng cho số phận các nhân vật qua từng diễn biến của câu chuyện hoặc bố trí các em ngồi quay mặt với nhau, ngồi theo hình chữ U…
Nên sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho các đối tượng học sinh xen kẽ nhau: Học sinh khá – giỏi với học sinh trung bình – yếu. Học sinh nam với học sinh nữ. Học sinh mạnh dạn tự tin với học sinh nhút nhát, tự ti. Học sinh có khả năng diễn đạt tốt, năng khiếu kể chuyện hay với học sinh có khả năng diễn đạt yếu, không có khả năng kể chuyện.
Phải thay đổi cách chia nhóm một cách linh hoạt để học sinh thoải mái, vui vẻ, có tinh thần thi đua trong học tập, phát huy khả năng của mình và giúp đỡ nhau trong học tập.
Ví dụ:
+ Chia nhóm ngẫu nhiên: Tạo cảm hứng học tập vui vẻ, hoà đồng với mọi người, HS có thể thay GV bảo ban, giúp đỡ bạn, giúp đỡ những em yếu hơn vươn lên và cố gắng hơn.
+ Chia nhóm theo trình độ: Kích thích tính thi đua, hăng hái học tập vượt lên chính mình của mỗi HS.
+ Chia nhóm theo giới tính: HS mạnh dạn hơn, thể hiện giọng nhân vật tốt hơn, tập nhập vai tự nhiên hơn.
+ Chia nhóm theo nguyện vọng: (HS tự chọn bạn cùng nhóm mình): Tạo điều kiện để HS hiểu bạn mình hơn, HS phát triển tư duy hơn: có thể chọn những bạn phù hợp với vai trò nhập vai theo nội dung câu chuyện. HS biết sắp xếp và giao việc cho nhau, quyết đoán hơn trong mọi tình huống nhưng lại tôn trọng bạn mình hơn.
NGỒI QUANH BÀN HỌC | NGỒI HÌNH CHỮ U | |
BẢNG LỚP | BẢNG LỚP |
Mô hình bố trí lớp học
3.2. Biện pháp 2: Sự chuẩn bị của giáo viên
Để tiết dạy phong phú và đạt được kết quả tốt thì việc đầu tiên phải làm tốt là bước chuẩn bị. Chuẩn bị cả nội dung và hình thức phục vụ tiết dạy. Việc chuẩn bị tốt sẽ làm cho giáo viên và học sinh chủ động hơn, mạnh dạn hơn, sắp xếp các hoạt động một cách hợp lý có khoa học.
Phải nắm được tâm lý đặc điểm từng học sinh để biết được tính tình, đặc điểm lứa tuổi học sinh tiểu học. Nắm chắc nội dung yêu cầu của bài và nội dung cốt truyện. Phải có tranh minh hoạ được phóng to có nhiều màu sắc thu hút được học sinh. Giáo viên phải cảm nhận thật sâu sắc về từng câu chuyện của bài. Nghiên cứu thật kĩ câu chuyện, nhất là những câu chuyện có tình tiết phức tạp trước khi lên lớp.
Giúp học sinh phải xác định được đoạn – nội dung chính của đoạn – ý trong từng đoạn đó.Giúp học sinh quan sát tranh, cảm nhận về nhân vật trong tranh,thứ tự các tranh,nhân vật chính và hoạt động của các nhân vật.
Sưu tầm một số tư liệu xung quanh nội dung câu chuyện để mở rộng, liên hệ , dẫn dắt học sinh .
Ví dụ 1: Khi dạy bài Cầu thủ dự bị – trang 34 sách Tiếng Việt lớp 2 tập 1 – bộ sách Kết nối tri thức
Tôi vận dụng câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao như: “Có chí thì nên” hay “Có công mài sắt có ngày nên kim”
Ví dụ 2: Để dạy bài Cô giáo lớp em – trang 40 sách Tiếng việt lớp 2 tập 1 – bộ sách Kết nối tri thức
Tôi liên hệ đến bài hát “Bụi Phấn”, “Nhớ ơn thầy cô”
Lứa tuổi này các em rất nhát nếu giáo viên có thái độ không tế nhị sẽ dẫn đến học sinh sẽ không dám kể và như thế tạo cho các em cảm giác sợ hãi khi tham gia kể chuyện.
Khi bắt đầu vào tiết học để tạo không khí cho các em, tôi thử cho một em lên kể lại câu chuyện vui nào đó mà em biết hoặc cho cả lớp chơi trò chơi .Và kết quả quá bất ngờ là được các em hưởng ứng rất tích cực và nhiệt tình tham gia. Các em có những tràng cười thoải mái trước khi bước đầu vào nội dung chính của bài. Ngoài ra các em còn tự sưu tầm truyện vui để được kể trước lớp, các em rất thích thú khi được đứng trước lớp kể cho các bạn nghe. Đôi lúc những câu chuyện thật bình thường mà chúng xem trên tivi hoặc xem được ở đâu đó. Bước đầu tôi hình thành ở học sinh tính mạnh dạn và biết dùng lời nói của mình kể lại những chuyện mà chúng biết, thời gian dành cho phần mở đầu ấy chiếm khoảng từ 2 đến 3 phút nhưng đã tạo không khí lớp học sôi nổi hẳn lên.
Kết quả mà tôi thu thập được về hứng thú học tập của các em là 35/35 em thích lên kể chuyện vui trước khi bắt đầu học.
3.3. Biện pháp 3: Giúp học sinh quan sát tranh – kể chuyện theo nhóm.
Tranh minh hoạ cho câu chuyện được xem là trọng tâm của hoạt động kể theo tranh. Ở học kì I, một số câu chuyện có tranh vẽ minh hoạ nhằm gợi ý cho các em dễ nhớ cốt truyện và một số truyện có dàn ý cho sẵn. Để hình thành ở học sinh kỹ năng quan sát và biết kể bằng ngôn ngữ của mình và yêu cầu cần đạt khi hướng dẫn học sinh kể chuyện sáng tạo. Để vào bài một tiết kể chuyện bao giờ tôi cũng nhắc thật kỹ mục đích – yêu cầu của bài cho học sinh nắm rõ trước khi vào nội dung chính của bài sau đó vài em nhắc lại. Nhằm tạo cho các em nhớ lại nội dung câu chuyện và để nắm được nội dung câu chuyện thì việc nghiên cứu hình ảnh minh họa cũng không kém phần quan trọng, trước khi kể tôi yêu cầu các em phải quan sát thật kĩ nội dung của từng tranh vẽ và nhớ lại nội bài tập đọc đã học. Không yêu cầu các em phải nhớ thật chi tiết câu chuyện, chỉ cần nhớ cốt truyện là đủ. Một số học sinh yếu thì tôi cho các em đọc thầm lại bài tập đọc vài lần để các em nhớ lại cốt truyện. Sau đó cho các em nêu tóm tắt lại nội dung từng bức tranh. Mỗi tranh là một nội dung của câu chuyện. Kĩ năng cần đạt ở giai đoạn này là học sinh biết sắp xếp nội dung tranh vẽ phù hợp với nội dung câu chuyện và quan trọng là nhớ lại câu chuyện để có thể diễn đạt lại bằng ngôn ngữ của mình.
Để kiểm tra trí nhớ học sinh, sau khi học sinh quan sát tôi liền cho đặt câu hỏi: “Bức tranh vẽ cảnh gì?”. Sau khi học sinh nắm được nội dung tranh thì tôi tiến hành cho các em kể. Yêu cầu của tôi đặt ra cho các em là phải nắm nội dung câu chuyện và kể lại bằng giọng kể và lời nói của mình. Mặc dù các em kể y như trong bài tập đọc là không sai nhưng tôi luôn khuyến khích các em kể bằng suy nghĩ, cảm nhận của mình về câu chuyện đó. Điều quan trọng ở hoạt động này là tôi hướng cho các em được nói lên nội dung câu chuyện thông qua từng đoạn tranh chứ không phải là đọc lại nội dung cốt truyện. Vì vậy chính giáo viên là người hướng dẫn các em làm được việc đó. Ở các em chưa biết tự ý thức được điều này, muốn hình thành được kĩ năng đó tôi đã áp dụng biện pháp các em nhìn tranh quan sát và hướng cho từng nhóm làm việc, nêu rõ yêu cầu của bài là em phải biết dùng lời của mình diễn đạt nội dung tranh vẽ, các em có thể tham khảo thêm ở bài tập nhưng tôi có một nhận xét chung là hầu hết các em đều đã nắm rõ. Vì thông qua nội dung bài tập đọc đã được học 2 tiết thì việc nắm cốt truyện các em rất hiểu.
Ví dụ 1: Bài 1 – trang 81 sách Tiếng việt lớp 2 tập 1 – bộ sách Kết nối tri thức
– Lời kể theo tranh 1 có sáng tạo: Từ xa xưa, trong rừng xanh sâu thẳm, có đôi bạn bê vàng và dê trắng sống bên nhau rất vui vẻ.
– Lời kể theo tranh 2 có sáng tạo: Một năm trời hạn hán, suối cạn, cỏ héo khô, đôi bạn không có gì để ăn.
Xem thêm:
- SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tập làm văn học sinh lớp 2 (Bộ sách Kết nối tri thức)
- SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 theo chương trình tiểu học mới qua bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống
- SKKN Một số kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2 (Bộ sách Kết nối tri thức)
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 8
- 198
- 2
- [product_views]
- 4
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 141
- 4
- [product_views]
- 4
- 166
- 5
- [product_views]
- 8
- 180
- 6
- [product_views]
- 7
- 166
- 7
- [product_views]
- 3
- 164
- 8
- [product_views]
- 2
- 184
- 9
- [product_views]
- 8
- 121
- 10
- [product_views]