Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tập làm văn học sinh lớp 2 (Bộ sách Kết nối tri thức)
- Mã tài liệu: HT2012 Copy
Môn: | Tiếng Việt |
Lớp: | Lớp 2 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 603 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Thủy |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Thái Học |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Thủy |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Thái Học |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tập làm văn học sinh lớp 2 (Bộ sách Kết nối tri thức)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Đối với dạng bài kể ngắn
Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy các dạng bài kể ngắn Tập làm văn lớp 2
Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 2-dạng bài kể ngắn
Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”,… để làm nền cho HS kể ngắn tốt
Biện pháp 4: Tăng cường luyện nói, luyện kể, cho học sinh thông qua phân môn Tập đọc, Kể chuyện
Biện pháp 5: Thực hiện tốt quan điểm tích hợp để nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
2. Đối với dạng bài: Viết đoạn văn ngắn
Biện pháp 1: Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng
Biện pháp 2: Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn
Biện pháp 3: Tăng cường ôn tập củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh
Biện pháp 4: Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài
Mô tả sản phẩm
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ thống và vững chắc.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới.
Như chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Rèn luyện các kỹ năng nói (nghe, đọc) và sản sinh lời nói (nói, viết) giúp học sinh có năng lực dùng tiếng Việt để học tập, giao tiếp ở môi trường hoạt động của lứa tuổi. Để thực hiện tốt mục tiêu này, mỗi phân môn Tiếng Việt đều có thể và có nhiệm vụ hình thành, phát triển cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt trên bình diện lời nói. Tuy nhiên nhiệm vụ này được thực hiện tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.
Chương trình Tập làm văn hiện nay rất có ưu thế để thực hiện nhiệm vụ phát triển lời nói cho học sinh đặc biệt là ở dạng văn nói: về thời lượng, về cấu trúc chương trình đến đề tài nội dung. Qua mỗi tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện để nói từ nói đúng nói đủ đến nói hay, độc lập và sáng tạo… Tuy nhiên năng lực lời nói của học sinh có phát triển được hay không điều đó cũng phụ thuộc vào cách tổ chức điều khi hướng dẫn hoạt động giao tiếp của giáo viên, phụ thuộc vào việc vận dụng linh hoạt lý thuyết hoạt động lời nói vào trong dạy học và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học khi lên lớp.
Nội dung Tập làm văn lớp hai cung cấp cho học sinh (HS) các kĩ năng nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân môn Tập làm văn lớp Hai cũng rèn cho HS kĩ năng nghe và kĩ năng diễn đạt… Thực tế đến đầu năm lớp Hai hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt cũng rời rạc. Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt lủn hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả.
Chính vì muốn để các em có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một cách phù hợp trong các tình huống (chia vui, chia buồn, an ủi, đề nghị, xin lỗi) nên ngay từ đầu năm học tôi đã hướng và cùng các em mở rộng hiểu biết về Tiếng Việt qua các phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tập làm văn học sinh lớp 2” theo bộ sách Kết nối tri thức.
2. Mục đích nghiên cứu
– Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc phát triển lời nói cho học sinh tiểu học qua học phân môn Tập làm văn lớp 2.
– Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học Tập làm văn cho học sinh lớp 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2 theo bộ sách Kết nối tri thức
4. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nhằm làm rõ về mặt lý thuyết vai trò khi sử dụng các biện pháp nâng cao chất lượng học môn tập làm văn của học sinh lớp 2.
– Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Nhằm phân loại đối tượng học sinh từ đầu năm để có biện pháp thích hợp.
– Phương pháp thực nghiệm: Dùng để kiểm nghiệm vai trò của Các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
– Phương pháp thống kê toán học.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Chúng ta đều biết rằng đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, có nhiều đổi mới: đổi mới về kinh tế, xã hội, giáo dục… Sự phát triển giáo dục của nước ta giúp cho những chủ nhân tương lai của đất nước luôn được phát triển toàn diện, đầy đủ về năng lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học ban đầu để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành động đúng cho bản thân.
Tiếng Việt là môn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh Tiểu học, bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới. Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ, giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Nó rèn cho các em diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau.
Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết cũng hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của một bộ phận HS ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ ngữ… Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. Phân môn Tập làm văn lớp Hai giúp các em học sinh thực hành rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho việc học tập và giao tiếp hằng ngày, cụ thể:
*Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi; tự giới thiệu; cảm ơn; xin lỗi; mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; chia buồn, an ủi; chia vui, khen ngợi; ngạc nhiên, thích thú; đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn; đáp lời xin lỗi…
*Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: viết bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu, nhận và gọi điện thoại, viết nhắn tin, lập thời gian biểu, chép nội quy, đọc sổ liên lạc
*Thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt (nói, viết), như: kể về người thân trong gia đình, về sự vật hay sự việc được chứng kiến; tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi…
*Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu được ý chính của mẩu truyện ngắn đã nghe.
Như vậy, phân môn Tập làm văn trong SGK Tiếng Việt 2 không phải chỉ giúp học sinh nắm các nghi thức tối thiểu của lời nói và biết sử dụng các nghi thức đó trong những tình huống khác nhau, như nơi công cộng, trong trường học, ở gia đình với những đối tượng khác nhau, như bạn bè, thầy cô, bố mẹ, người xa lạ… mà còn là việc nắm các kỹ năng giao tiếp thông thường khác; tạo lập văn bản phục vụ đời sống hằng ngày; nói, viết những vấn đề theo chủ điểm quen thuộc.
2. Cơ sở thực tế
Qua dạy học đầu năm lớp 2, tôi nhận thấy kĩ năng diễn đạt của HS cũng rất hạn chế. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì vốn từ của các em còn nghèo, cơ hội để các em rèn luyện cũng ít. Hầu hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt cũng rời rạc. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên cần rèn kĩ năng diễn đạt cho các em. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì? Viết gì? Trong quá trình làm bài, tôi thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đó, dùng từ, chấm câu cũng sai. Nhiều em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Ngoài ra các em cũng rất hạn chế về cách dùng từ để diễn đạt ý cần viết… Cụ thể chất lượng khảo sát học sinh lớp tôi đối với phân môn Tập làm văn giai đoạn đầu năm như sau:
Lớp … (… học sinh) | Mức độ 1 | Mức độ 2 | Mức độ 3 | Mức độ 4 |
Trước khi thực hiện đề tài | 12 em
(28,5%) |
17 em
(40,4 %) |
13 em
(31,1%) |
0 |
Mức độ 1: Các em chưa biết diễn đạt ý của mình.
Mức độ 2: Các em chỉ nói được những câu ngắn chưa đủ ý.
Mức độ 3: Các em diễn đạt các câu cũng rời rạc.
Mức độ 4: Các em diễn đạt được các câu có hình ảnh , đúng mục đích.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đề ra? Do đó khi đứng lớp, tôi luôn chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng làm Tập làm văn cho học sinh. Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho HS của lớp mình.
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn tập làm văn của học sinh lớp hai
3.1. Đối với dạng bài kể ngắn:
Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy các dạng bài kể ngắn Tập làm văn lớp 2.
Chương trình Tập làm văn lớp Hai gồm ba dạng bài cơ bản:
*Dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu.
*Dạng bài luyện tập các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày.
*Dạng bài kể ngắn.
Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Bài tập của dạng bài này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó còn có tác dụng hỗ trợ cho dạng bài khác.
Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tôi là học sinh lớp 2 – trang 10 sách Tiếng Việt lớp 2 tập 1 – bộ sách Kết nối tri thức. Bài này rèn luyện kĩ năng nói, kể. Chẳng hạn bài tập 1: Kể về những điều đáng nhớ nhất trong kì nghỉ hè của em.
Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn và tả ngắn, tôi lập nội dung chương trình như sau:
Tuần | Nội dung bài dạy | Lưu ý |
1 | Bài 1: Tôi là học sinh lớp 2 | Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể |
1 | Bài 2: Ngày hôm qua đâu rồi | Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể |
2 | Bài 4: Làm việc thật là vui | Bài tập 2 có tác dụng rèn kĩ năng kể |
3 | Bài 5: Em có xinh không? | Bài tập 2: kể ngắn |
3 | Bài 6: Một giờ học | Bài tập 1: kể ngắn |
4 | Bài 8: Cầu thủ dự bị | Trọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ năng kể ngắn. |
5 | Bài 9: Cô giáo lớp em | Rèn luyện kĩ năng nghe, kể, tả |
11 | Bài 20: Nhím nâu kết bạn | Rèn kĩ năng kể |
15 | Bài 27: Mẹ | Rèn luyện kĩ năng kể chuyện |
Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 2-dạng bài kể ngắn.
Chúng ta biết rằng tư duy trừu tượng của học sinh lớp Hai cũng rất hạn chế. Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn với các em. Do vốn từ của các em cũng hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý, vì thế tụi tổ chức cho học sinh lập mạng từ chốt để phục vụ cho việc kể ngắn.
Ví dụ: Bài 13 “Yêu lắm trường ơi” – trang 55 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 – bộ sách Kết nối tri thức.
Cuối tiết tập làm văn trước, tôi dặn dò học sinh về nhà dựa vào câu hỏi gợi ý lập mạng từ chốt (khoảng 4 – 5 từ). Trong tuần, trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở việc lập mạng từ chốt của học sinh. Ngoài việc tổ chức học sinh lập mạng từ chốt, tôi cũng lập một mạng từ chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy.
Ví dụ: Mạng từ chốt (những từ ngữ) cần dạy bài “Yêu lắm trường ơi”: trường học, thầy cô, bạn bè, học sinh, tình bạn,… Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm mạng từ chốt để kể. Đối với học sinh học tốt tôi khuyến khích các em thoát ly mạng từ chốt để kể tự nhiên hơn. Đối với học sinh học chưa tốt không lập được mạng từ chốt, tôi cho các em nhìn vào mạng từ chốt của giáo viên để kể. Khi thực hiện phương pháp này, các em học sinh nắm được từ khoá của bài, linh hoạt sử dụng giúp cho bài văn có cảm xúc và phong phú hơn. Qua tiết dạy, tôi nhận thấy biện pháp này rất phù hợp và đem lại hiệu quả giáo dục cao.
Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”,… để làm nền cho HS kể ngắn tốt.
Kiến thức – kĩ năng Tập làm văn lớp Hai được sắp xếp từ dễ đến khó một cách hợp lý. Đầu lớp Hai, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi” (Tuần 1, tuần 2, tuần 3, tuần 4), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2), sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các câu cho đúng thứ tự của truyện …”. Do đó để giúp HS kể tốt, việc dạy tốt các bài trả lời câu hỏi, tập nói đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ví dụ: Bài “Niềm vui của Bi và Bống” – sách Tiếng việt trang 17 – bộ sách Kết nối tri thức.
Câu hỏi: Nếu có bảy hũ vàng, Bi và Bống sẽ làm gì?
Trả lời: Mua búp bê, quần áo, ngựa hồng, ô tô
Trả lời đầy đủ: Nếu có bảy hũ vàng, Bống sẽ mua nhiều búp bê và quần áo đẹp; Bi sẽ mua một con ngựa hồng và một cái ô tô.
Thực hiện nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở để các em kể chuyện tốt.
Đối với dạng bài tập “Kể lại theo tranh”,“Sắp xếp lại thứ tự các tranh, sau đó dựa theo nội dung các tranh ấy, kể lại câu chuyện”, “Dựa vào tranh, trả lời câu hỏi”, “Dựa vào tranh vẽ, kể chuyện…”, tôi gợi ý cho HS thêm thắt các từ ngữ để kết nối ý giữa các tranh cho câu chuyện thêm sinh động. Đầu tiên tôi gợi ý để các em học tốt thực hiện trước, sau đó nhân ra cho cả lớp
Ví dụ: Tuần 2, HS làm bài tập “Chọn kể 1-2 đoạn của câu chuyện theo tranh” – sách Tiếng Việt lớp 2 trang 19 – bộ sách Kết nốt tri thức.
Theo yêu cầu của đề bài HS có thể kể: “Khi cầu vồng hiện ra, Bi nói với Bống có bảy hũ vàng dưới chân cầu vồng (tranh 1). Nghe thế, Bống nói với Bi đi lấy bảy hũ vàng về để mua nhiều búp bê và quần áo đẹp. Còn Bi nói muốn mua một con ngựa hồng và một cái ô tô (tranh 2). Nhưng ngay sau đó, cầu vồng biến mất. Thấy vậy, 2 anh em hứa sẽ vẽ tặng cho nhau những món đồ mà người kia thích (tranh 3). Mặc dù không có bảy hũ vàng, nhưng 2 anh em vẫn cười vui vẻ (tranh 4).
Biện pháp 4: Tăng cường luyện nói, luyện kể, cho học sinh thông qua phân môn Tập đọc, Kể chuyện.
Sở dĩ HS diễn đạt còn hạn chế do một phần trong học tập các em ít được nói, nhất là những em có tính rụt. Do đó tôi tạo điều kiện cho các em được nói, kể nhiều trong học tập. Không những chỉ trong phân môn Tập làm văn mà trong các phân môn Tập đọc, Kể chuyện tôi cũng tạo điều kiện mọi HS được nói, được kể. Chương trình môn Tiếng Việt lớp Hai có thuận lợi là các bài Tập đọc đầu tuần đều là những truyện kể và cũng là nội dung để HS tập kể chuyện. Tôi tận dụng thuận lợi này để giúp các em được rèn luyện kĩ năng nói, kể như sau:
Xem thêm:
- SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 theo chương trình tiểu học mới qua bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống
- SKKN Một số kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2 (Bộ sách Kết nối tri thức)
- SKKN Nâng cao kỹ năng kể chuyện theo nhóm cho học sinh lớp 2 thông qua việc sử dụng tranh ảnh minh họa (Kết nối tri thức) (W+PPT)
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 8
- 198
- 2
- [product_views]
- 4
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 141
- 4
- [product_views]
- 4
- 166
- 5
- [product_views]
- 8
- 180
- 6
- [product_views]
- 7
- 166
- 7
- [product_views]
- 3
- 164
- 8
- [product_views]
- 2
- 184
- 9
- [product_views]
- 8
- 121
- 10
- [product_views]