SKKN Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5
- Mã tài liệu: BM5173 Copy
Môn: | Tiếng Việt |
Lớp: | 5 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 386 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 31 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Lan |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Khắc Nhu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 31 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Lan |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Khắc Nhu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5″ triển khai các biện pháp như sau:
a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa 7
b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
c. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
d. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
e. Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
g. Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy
Mô tả sản phẩm
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng, những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục đòi hỏi những yêu cầu mới trong dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong môn Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ. Dân gian có câu: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”.
Thật vậy, trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không mấy khó khăn, tuy nhiên khi học xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cũng không được như mong đợi của giáo viên. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng trong phân môn Luyện từ và câu – chương trình Tiếng Việt lớp 5. Trong thực tế thì đa số học sinh kể cả học sinh giỏi và không ít giáo viên nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy học lớp 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn đề tài: Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
- Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài – Mục tiêu:
Thực hiện đề tài này nhằm giúp học sinh hiểu nghĩa từ, sử dụng từ đúng, chính xác và vận dụng trong khi nói, viết, làm Tập làm văn…Chính vì vậy, tôi phải tự trang bị cho mình kiến thức Tiếng Việt vững vàng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, giúp các em hiểu đúng nghĩa của từ và hiểu từ trong từng văn cảnh cụ thể.
– Nhiệm vụ:
Trường Tiểu học Trần Phú đóng trên địa bàn thị trấn Buôn Trấp. Thành phần học sinh rất đa dạng, con em tư thương, con em nhà nông, con em cán bộ viên chức, con em các dân tộc thiểu số…. Phần đông học sinh là con em của địa phương. Nhờ sự quan tâm của các cấp, các bậc phụ huynh và đặc biệt là được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường cùng với đội ngũ giáo viên giỏi, nhiệt tình có nhiều kinh nghiệm, nên tỷ lệ học sinh khá giỏi tương đối cao. Trường đã nhiều năm được đánh giá là trường tiên tiến cấp tỉnh. Trường là nơi hội tụ của những học sinh từ nhiều miền quê khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều tín ngưỡng khác nhau. Nhiệm vụ chung của nền giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục học sinh Tiểu học nói riêng là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trí tuệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới. Trong đó giáo dục Tiểu học giữ vai trò vô cùng quan trọng. Giáo dục học sinh ở Tiểu học là đặt nền móng, là tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ và phẩm chất ở giai đoạn tiếp theo.
3. Đối tượng nghiên cứu
– Học sinh lớp 5 trường Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5A trường Tiểu học Trần Phú nói riêng
4. Phạm vi nghiên cứu
- Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu, lớp 5 và một số tài liệu hướng dẫn có liên quan. 5. Phương pháp nghiên cứu – Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp đối thoại.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp đọc sách và tham khảo tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận
Tạp chí Thế giới trong ta – Chuyên đề 62 + 63 số ra trong tháng 4 + 5 năm 2007 có đăng bài viết đề cập đến nội dung “Giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Đây là một vấn đề không bao giờ được coi là cũ, là thừa trong “Kho tri thức nghiệp vụ dạy học”. Sách Tiếng Việt 5 tập Một, sách giáo viên 5 tập Một, sách Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học.
- Công văn 5842/BGDĐT-VP, v/v Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học GDTH, ngày 01 tháng 9 năm 2011 của BGDĐT
- Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, về việc ban hành quy định đánh giá học sinh Tiểu học.
Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm : Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy; Nguyên tắc hướng hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học sinh. Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai kĩ năng nói và viết và nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng.
Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy. Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc của ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định hướng. Quá trình này không chỉ hình thành các kỹ năng ngôn ngữ mà còn hình thành các kỹ năng và phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ thì tất phải rèn luyện tư duy và ngược lại. Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành các yêu cầu sau đây:
- Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy.
- Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy, tư duy hình tượng và tư duy logic.
- Dạy học tiếng phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn ngữ gắn chúng với nội dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy được giá trị của chúng trong hệ thống tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề tài cho các bài tập luyện nói, liên kết gần gũi với đời sống của các em.
2. Thực trạng
- Thuận lợi, khó khăn – Thuận lợi :
Khi thực hiện đề tài này bản thân tôi có những thuận lợi chiếm ưu thế. Đó là nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5 và đã trải nghiệm thực tế, sự quan tâm của các bậc phụ huynh và đặc biệt là được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường cùng với đội ngũ giáo viên giỏi, nhiệt tình có nhiều kinh nghiệm, nên tỷ lệ học sinh khá giỏi tương đối cao. Trường đã nhiều năm được đánh giá là trường tiên tiến cấp tỉnh.
Trường lại đóng ở trung tâm thị trấn nên rất thuận lợi cho việc đi lại, học tập của học sinh.
- Khó khăn :
Trường cũng là nơi hội tụ của những học sinh từ nhiều miền quê khác nhau, đồng thời là nơi tập trung nhiều tín ngưỡng khác nhau. Kết hợp phân môn luyện từ và câu với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt để giúp các em có vốn từ đa dạng, phong phú. Từ đó giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo.
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn:
- Học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng…
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
- Thành công, hạn chế – Thành công:
Trong những năm gần đây, chất lượng đào tạo từng bước ổn định và đem lại những hiệu qua thiết thực. Học sinh biết sử dụng từ ngữ có chọn lọc trong nói, viết, vận dụng dùng từ đặt câu trong bài Tập làm văn tương đối hay, đặc biệt là những HS khá giỏi.
– Hạn chế :
Việc dạy học tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và việc dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 nói riêng, bên cạnh những điểm tốt, mang lại một số kết quả nhất định còn khá nhiều khiếm khuyết. Khuyết điểm lớn nhất, dễ thấy nhất là bệnh rập khuôn, máy móc, thiếu tính chân thực trong cả cách dạy và cách học.
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5, các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm bài luyện tập về từ đồng âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng còn ít.
Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa khác nhau của một từ. Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa không có, trong khi đó khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
- Mặt mạnh, mặt yếu – Mặt mạnh :
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, các thầy giáo, cô giáo thường quan tâm tới nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao năng lực dùng từ ngữ, cách nói, viết câu chính xác qua giờ Luyện từ và câu. Từ đó kiến thức của các em sẽ làm cơ sở cho kĩ năng giao tiếp. Học sinh càng hứng thú khi viết văn, càng thêm yêu quý tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. – Mặt yếu :
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng. Trong thực tế thì đa số học sinh kể cả học sinh giỏi và không ít giáo viên nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Nguyên nhân
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau: đọc – viết giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa.
- Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt
- Học sinh còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa – Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề khó kể cả giáo viên thậm chí đối với các nhà ngôn ngữ học vẫn còn nhiều bàn cãi.
- Vốn từ vựng của các em học sinh còn hạn chế.
Từ thực trạng trên, làm thế nào để học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ? Mấu chốt của vấn đề là cả giáo viên và học sinh cần phải hiểu bản chất kiến thức: Từ đồng âm là nghĩa của các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển được hiểu rộng ra từ nghĩa gốc.
- Phân tích và đánh giá của các vấn đề thực trạng đã nghiên cứu
- Việc dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của giáo viên
Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học. Do đó, sau bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để minh hoạ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Về việc học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của học sinh
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đồng âm nhanh và ít sai hơn khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn.
Đặc biệt khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các nghĩa của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì phần đa các em làm được bài, song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số biện pháp giúp các em học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Hiểu lý thuyết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa một cách chắc chắn.
- Vận dụng vào các bài tập để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
- Từ vốn từ vựng mà học sinh đã tích lũy được trong môn Tiếng Việt, các em vận dụng vào nói, viết văn, biết trình bày một vấn đề gãy gọn, chính xác, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
- Rèn luyện kiến thức và kĩ năng tìm hiểu về nghĩa của từ thông qua cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi với cuộc sống.
- Gợi vấn đề cần giải quyết, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo. Giáo viên tạo tình huống có vấn đề như một câu hỏi lửng, giúp học sinh cảm nhận được vấn đề trong tình huống đó. Sau đó chính giáo viên đưa ra các vấn đề trình bày và giải quyết vấn đề, học sinh theo dõi các tình tiết tiến hành, phát triển và giải quyết vấn đề.
- Rèn luyện cách diễn đạt ngắn gọn, biết dùng vốn từ của mình để giải nghĩa từ chính xác. Trên cơ sở đó, phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Hướng dẫn học sinh làm sổ tích lũy môn Tiếng Việt
- Thi viết đoạn văn hay theo chủ đề, trong đó có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
+ Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (theo SGK TV5 – tập 1 – trang 51) Ví dụ:
bò trong kiến bò: chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng
cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
bò trong trâu bò: chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu
vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa…
đầm trong đầm sen: chỉ vùng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước.
đầm trong bà đầm : chỉ đàn bà, con gái phương Tây. đầm trong cái đầm đất: chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt.
- Đây là kiến thức cô đọng, súc tích nhất dành cho học sinh Tiểu học ghi nhớ, vận dụng khi làm bài tập, thực hành.
- Đối với giáo viên Tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong “câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu” là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hóa từ loại của từ).
- Ví dụ: + cuốc (danh từ): cái cuốc; đá (danh từ): hòn đá
+ cuốc (động từ): cuốc đất; đá (động từ): đá bóng
- Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên( gió bay, bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (lắm kẻ vì, vì lý do gì), do từ vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen, bà đầm; la mắng, nốt la), do từ rút gọn trùng với từ có sẵn (hụt mất hai ly, cái ly; hai ký, chữ ký…)
Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
- Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5, tập 1 – trang 67) Ví dụ :
+ Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt) + Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 173
- 1
- [product_views]
- 0
- 104
- 2
- [product_views]
- 1
- 186
- 3
- [product_views]
- 1
- 188
- 4
- [product_views]
- 6
- 129
- 5
- [product_views]
- 1
- 174
- 6
- [product_views]
- 5
- 189
- 7
- [product_views]
- 2
- 114
- 8
- [product_views]
- 4
- 117
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 7
- 107
- 10
- [product_views]