SKKN Biện pháp áp dụng phương pháp kỉ luật tích cực trong công tác chủ nhiệm

4.5/5

Giá:

50.000 đ
Cấp học: THCS
Môn: Chủ nhiệm
Lớp:
Bộ sách:
Lượt xem: 678
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
29
Lượt tải:

9

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN Biện pháp áp dụng phương pháp kỉ luật tích cực trong công tác chủ nhiệm triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

– Chuẩn bị cho giáo viên chủ nhiệm lớp thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong triển khai phong trào thi đua
– Tổ chức để giáo viên chủ nhiệm lớp thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong xây dựng môi trường dạy học và giáo dục

Mô tả sản phẩm

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Năm học …, Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được triển khai rộng rãi trong các trường mầm non và phổ thông trong suốt hơn 10 năm qua. Phong trào thi đua này phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục (giáo dục nhà trường là nòng cốt), phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của học sinh cùng xây dựng môi trường giáo dục thân thiện. Đó là môi trường an toàn, thuận lợi với mọi học sinh; học sinh được tạo điều kiện để sống khỏe mạnh, vui vẻ, tích cực học tập và tham gia các hoạt động khác; được giáo viên nhiệt tình giảng dạy yêu thương, tôn trọng; được gia đình và cộng đồng tạo điều kiện phát huy hết tiềm năng của bản thân. Cũng trong môi trường này, học sinh ý thức sâu sắc hơn về quyền được chăm sóc và bảo vệ, quyền được hưởng nền giáo dục có chất lượng.
Cùng thời gian trên, Tổ chức Plan tại Việt Nam triển khai chương trình hành động “Trường học thân thiện” (tháng 2 năm 2008) với khẩu hiệu trọng tâm “Giáo viên mẫu mực, học sinh tích cực” nhằm đạt mục tiêu “Mọi trẻ em Việt Nam được sống trong môi trường bảo vệ an toàn, ở đó tất cả hành vi bạo lực trẻ em được ngăn chặn và giải quyết triệt để”. Theo đó: 1/ trẻ em hiểu được quyền và bổn phận của mình, biết được các kỹ năng sống giúp phòng tránh các hình thức bạo lực và được bày tỏ quan điểm của mình đối với các vấn đề liên quan đến trẻ; 2/ Người dân, đặc biệt là giáo viên, cha mẹ, những người chăm sóc trẻ…, hiểu được quyền và bổn phận của của trẻ em, các tác hại của trừng phạt, bạo lực trẻ em và dần có khả năng áp dụng phương pháp kỷ luật tích cực…
Phương pháp kỷ luật được đề cập ở trên phản được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là một quan điểm giáo dục, trong đó các chủ thể giáo dục thiết lập, vận hành mối quan hệ, cách thức xử sự thân thiện (loại trừ các hình thức bạo lực, trừng phạt) giúp cho mọi học sinh thấy thoải mái, tích cực phát huy những điểm mạnh, những hành vi tốt, giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách tốt đẹp một cách bền vững.
Với sự phù hợp về mục tiêu và những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chương trình hành động “Trường học thân thiện” của Tổ chức Plan tại Việt Nam, việc tích hợp các hoạt động của phong trào thi và chương trình hành động nói trên là hợp lí. Phương pháp kỷ luật tích cực là một trong những con đường thực hiện sự tích hợp đó.
Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được triển khai rộng rãi trong các trường mầm non và phổ thông hơn 10 năm qua và thu được những kết quả khả quan. Ở mỗi địa phương, ở từng cơ sở giáo dục, bằng thực tiễn và kinh nghiệm của mình đã có những cách làm hay trong việc triển khai phong trào thi đua này.
Tuy vậy, thời gian gần đây, việc một số giáo viên sử dụng các biện pháp kỉ luật không đúng quy định đối với học sinh ở các trường phổ thông đã trở thành những vụ việc nổi cộm gây bức xúc trong dư luận xã hội. Đó là các chuyện từ bạo hành về thể chất như cô giáo phạt uống nước giẻ lau bảng, cô giáo đánh học sinh vì không làm bài tập, gần đây nhất là cô giáo bắt học sinh tát bạn 231 cái… cho đến bạo hành bằng tinh thần như chuyện cô giáo đến lớp không nói trong suốt 3 tháng, hay cô giáo chửi mắng học sinh… Những vi phạm này thật sự để lại những hậu quả nghiêm trọng, làm mất đi niềm tin tưởng của cha mẹ HS, của toàn XH vào ngành giáo dục và đạo đức người thầy. Theo Thạc sĩ Lê Minh Huân (giảng viên Khoa Tâm lý học, Đại học Sư phạm TP HCM) “Mọi tổn thương về thể chất, tinh thần đều ảnh hưởng đến học sinh nên nếu phạt trẻ, điều quan trọng là phải giúp học trò nhận ra lỗi của mình và ý thức sửa sai” Nếu mục tiêu này không được đảm bảo thì tác dụng tiêu cực sẽ để lại trong tâm lý đứa trẻ nhiều hơn là tích cực. Trẻ do đó có thể tự ti, xấu hổ, ghét đi học, khó chịu với giáo viên nếu áp dụng các hình phạt “vô lý”.
Vậy phải xử lý như thế nào nếu các em vi phạm kỉ luật, để việc kỉ luật thật sự có tác dụng giáo dục đối với học sinh?
Bài viết này đề cập đến một trong những biện pháp chỉ đạo công tác giáo viên chủ nhiệm lớp trong thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”: Biện pháp áp dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp để thực hiện các mục tiêu của phong trào thi đua.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thực hành phương pháp kỷ luật tích cực nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp và thực hiện tốt các mục tiêu, nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp.
– Thử nghiệm một hoạt động chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp thực hành phương pháp kỷ luật tích cực trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM THỰC HÀNH PHƯƠNG PHÁP KỶ LUẬT TÍCH CỰC
TRONG PHONG TRÀO THI ĐUA “XÂY DỰNG TRƯỜNG HỌC
THÂN THIỆN, HỌC SINH TÍCH CỰC”
1.1. Quan niệm về công tác chủ nhiệm lớp trong đổi mới giáo dục hiện nay
1.1.1. Tầm quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp
Công tác chủ nhiệm lớp ra đời cách đây mấy trăm năm, sau khi xuất hiện hệ thống tổ chức nhà trường theo lý luận của Cômenxki và tồn tại cho đến ngày nay. Vì trường đông HS, cần chia nhỏ thành lớp, quản lý HS mỗi lớp là GVCN.
Hàng trăm năm, chức năng cơ bản nhất của GVCN là Đại diện của Hiệu trưởng quản lý hoạt động học tập, sinh hoạt của một lớp học trong nhà trường. Vì vậy GVCN được coi như “cỏnh tay nối dài của Hiệu trưởng”.
Hiện nay, do những yêu cầu mới mà vai trò, vị trí của GVCN có những thay đổi rất lớn.
+ Trước hết do mục tiêu giáo dục có những thay đổi. Ngày nay giáo dục con người phát triển toàn diện trở thành yêu cầu khách quan, là đòi hỏi của sự phát triển kinh tế XH của nền văn minh Hậu công nghiệp.
Yêu cầu của XH cần đào tạo những thế hệ lao động thông minh, năng động, sáng tạo, biết kết hợp giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa lý luận với thực tiễn, có kiến thức sâu rộng và có năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế. Có xúc cảm, tình cảm, niềm tin sâu sắc vào sự phát triển của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Có bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, có 8 năng lực để phát triển (năng lực hoàn thiện, giao tiếp ứng xử, thích ứng, hợp tác và cạnh tranh; Tổ chức quản lý; Hoạt động chính trị xã hội và năng lực Lao động nghề nghiệp chuyên biệt).
+ Môi trường xã hội phong phú phức tạp, đòi hỏi phải đổi mới phương thức tổ chức tác động giáo dục.
Chúng ta đã biết “bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Ngày nay dưới tác động của các phương tiện thông tin đại chúng, của việc hội nhập mở cửa giao lưu toàn cầu đã dẫn tới sự giao thoa giữa các môi trường vi mô và vĩ mô, chính điều đó đòi hỏi phải thống nhất các ảnh hưởng, các tác động của các loại môi trường. Song, giáo dục nhà trường mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường và GVCN, là lực lượng chịu trách nhiệm chủ yếu.

Chú thích:

–   : Mỗi cá nhân (HS, …)
– a1, a2, a3:  Là môi trường vi mô như gia đình

cộng đồng nơi ở lớp học; Tập thể giáo dục…

– b1, b2…: Là môi trường xã hội vĩ mô từ địa  phương, quốc gia đến quốc tế.
– Tính thống nhất các lực lượng trong  hoạt động giáo dục.

Một thực tế ai cũng thấy mục tiêu, chất lượng giáo dục đào tạo ngày càng đòi hỏi cao, môi trường sống ngày càng phong phú, phức tạp. Chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn trên bằng một hệ thống giải pháp tạo ra sự thống nhất các tác động giáo dục, một phần không nhỏ đặt trên vai đội ngũ GVCN lớp ở các trường.
+ Một thực tế không thể bỏ qua đó là thanh thiếu niên ngày càng có những đặc điểm rất đáng quan tâm, rất cần có giáo viên chủ nhiệm.
Học sinh ngày nay có những đặc điểm tâm sinh lý mà thế hệ ông cha trước đây không có. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như đời sống vật chất được nâng cao, ảnh hưởng của văn hóa phẩm, của các tác động XH tích cực và tiêu cực trong và ngoài nước; các em được sống trong XH dân chủ, bình đẳng, cởi mở hơn, các em có cơ hội, có điều kiện tham gia nhiều lĩnh vực của cuộc sống, của các hoạt động vui chơi, giải trí… ở thế hệ trẻ ngày nay có những chỉ số phát triển hơn các thế hệ trước: khỏe hơn, tuổi dạy thì sớm hơn, các chỉ số IQ cũng cao hơn, nhu cầu hoạt động, hưởng thụ cũng phong phú hơn…
Sống trong thực tế ấy, ở HS có sự phân hóa, phân cực khá rõ rệt. Một bộ phận không nhiều, có nhận thức, có ý chí, bản lĩnh biết tận dụng thời cơ, điều kiện học tập rèn luyện để trở thành những người tiên tiến… Còn một bộ phận lớn chưa có kinh nghiệm sống, những phẩm chất tâm lý, đạo đức chưa bền vững rất khó khăn trong sự lựa chọn, xác định phương hướng học tập, rèn luyện, vì vậy vai trò của các nhà sư phạm (trong đó có GVCN) là rất quan trọng.
Xuất phát từ những yêu cầu mới, từ hoàn cảnh cụ thể của XH, của gia đình trong thời đại hiện nay vị trí của GVCN và công tác GVCN ở trường học có một ý nghĩa đặc biệt. Vấn đề đặt ra là đòi hỏi thầy cô giáo chủ nhiệm như thế nào và cần xác định một cơ chế hoạt động về quyền hạn, trách nhiệm cho phù hợp với thực tế.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN
Trong giai đoạn hiện nay, do yêu cầu của đổi mới giáo dục, người GVCN phải là sự tổng hợp nhân cách, năng lực của một nhà SP, một nhà quản lý, một cố vấn cho các tổ chức XH và gia đình, là tư vấn cho tất cả HS trong học tập, rèn luyện và hoạt động XH, GVCN còn phải là một nhà hoạt động chính trị văn hóa xã hội.
Điểm mới, khác chủ yếu GVCN hiện nay so với trước là ở chỗ:
– Trước đây:
+ Đối tượng  : Quản lý HS một lớp học
+ Nội dung quản lý : Hoạt động học tập
+ Không gian thời gian : ở lớp, ở trường
+ Phương pháp quản lý : Trực tiếp + Chịu trách nhiệm với hiệu trưởng.
– Bây giờ cần:
+ Ngoài những yêu cầu như trước đây, GVCN là người thiết kế, tổ chức quan hệ phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, phát triển tiềm năng của XH và nhà trường, phát huy tốt nhất, tối đa khả năng của HS.
Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng so sánh sau đây:
TT Trước đây Hiện nay cần làm
1 Quản lý hoạt động DH trên lớp Cố vấn cho HS tổ chức mọi hoạt động (HDGD NGLL là trọng tâm) nhằm GD đạo đức, lối sống và phát triển các năng lực, giáo dục hướng nghiệp.
2 Chỉ quản lý HS ở lớp ở trường Phối hợp với các lực lượng XH tạo điều kiện không gian, thời gian cho HS học tập, rèn luyện (khép kín không gian, thời gian hoạt động của HS).
3 Trực tiếp nhận xét đánh giá kết quả học tập hạnh kiểm của HS – Giúp HS và tập thể lớp tự đánh giá quá trình rèn luyện theo mục tiêu GD.
– Phối hợp, tiếp thu nhận xét đánh giá của GĐ và các tổ chức GD khác để đánh giá khách quan quá trình rèn luyện của HS
4 Thông báo kết quả trực tiếp cho gia đình – Thông báo qua cộng đồng nơi ở (tổ dân phố, cơ quan cha mẹ công tác, tổ chức Đội và Đoàn
5 Không yêu cầu GVCN phải –  Cần tổ chức trang bị trình độ SP, phổ biến
làm mục tiêu, kế hoạch GD cho các bậc cha mẹ và các lực lượng XH có liên quan.
6 Không yêu cầu –  Phát hiện năng khiếu và sở thích, bồi dưỡng các loại HS (giỏi, yếu, có năng khiếu các loại)
7 Không yêu cầu –  Kế hoạch hóa việc tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện các loại kỹ năng cho tất cả HS thông qua bố trí đội ngũ cán bộ tự quản và các hoạt động của lớp, tổ chức các câu lạc bộ.
8 Không yêu cầu –  Xây dựng Hội cha mẹ thành lực lượng tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lớp chủ nhiệm
9 Không yêu cầu –  Kế hoạch hóa việc sử dụng mọi tiềm năng của GĐ và XH vào phục vụ các hoạt động GD của lớp CN và của trường.
10 Không yêu cầu –  Phản ánh những nguyện vọng chính đáng của HS với những người có trách nhiệm để giải quyết (Hiệu trưởng, GV môn học, gia đình, các tổ chức XH).
11 Không yêu cầu
– Tư vấn cho HS lựa chọn nghề nghiệp (GD hướng nghiệp)
– Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường định hướng phân ban và giáo dục hướng nghiệp (THPT)
Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ công tác chủ nhiệm trong giai đoạn mới đòi hỏi thầy cô giáo chủ nhiệm phải có:
– Trí: Không chỉ là kiến thức môn học mà còn cần kiến thức, nghệ thuật giáo dục, về quản lý giáo dục, về các kiến thức khoa học xã hội, nhân văn về chính trị. Phải có kiến thức thực tế, phải cập nhật với kiến thức mới, hiện đại.
– Tâm: Là hệ thống các giá trị nhân cách, Tâm còn là lý tưởng nghề nghiệp (Đam mê với nghề), Tâm còn là phẩm chất tâm lý (ý chí, nghị lực bình tĩnh, tự kìm chế, năng động, sáng tạo) là cuộc sống tâm hồn, sống lạc quan, yêu đời…)
– Tầm: Tầm nhìn là phương pháp luận giải quyết biện chứng các sự kiện, hiện tượng giáo dục, tổ chức giáo dục theo một hệ thống viễn cảnh (từ gần đến trung bình và xa).

1.2. Phương pháp kỷ luật tích cực
1.2.2. PPKLTC là gì?
Phương pháp kỷ luật tích cực trong nhà trường là biện pháp giáo dục học sinh mà không sử dụng đến các hình thức bạo lực, trừng phạt; trong đó giáo viên, cán bộ giáo dục áp dụng các hình thức kỷ luật tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một cách tốt đẹp, bền vững.
PPKLTC được thực hiện dựa trên một số nguyên tắc sau:
• Vì lợi ích tốt nhất của học sinh: Mọi hành động, biện pháp kỷ luật mà giáo viên áp dụng là nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho học sinh để các em có thể phát huy tốt nhất các tiềm năng của mình.
• Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh: Các hình thức, biện pháp giáo dục, kỷ luật đối với học sinh, trong mọi trường hợp, không được xâm hại đến thân thể cũng như tinh thần của các em. Các biện pháp can thiệp phải tập trung, hướng vào hành vi của học sinh, không phải để phê phán con người, nhân cách của học sinh. Dưới góc độ này, giáo viên, cán bộ giáo dục cần luôn nhận thức rằng “không có học sinh xấu, chỉ có hành vi của học sinh là tốt hay xấu” mà thôi.
• Có sự trao đổi, thỏa thuận giữa giáo viên và học sinh: Mọi cách thức, chế tài kỷ luật được áp dụng – dù học sinh có thể không mong muốn, buộc phải làm theo – đều cần được trao đổi trước giữa giáo viên và học sinh. Nếu đạt được sự thỏa thuận, đồng ý giữa hai bên trước khi áp dụng là tốt nhất.
• Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh: Ở mỗi độ tuổi khác nhau, học sinh có những đặc điểm phát triển khác nhau, vì vậy, các biện pháp giáo dục, kỷ luật đối với học sinh cũng phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em.
Cần lưu ý rằng PPKLTC không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc áp dụng các biện pháp kỷ luật phù hợp đối với các học sinh có hành vi không phù hợp để uốn nắn, chỉnh sửa các hành vi đó của các em. PPKLTC, theo nghĩa rộng, là việc giáo viên, cán bộ giáo dục có cách thức xử sự thân thiện, phù hợp giúp cho mọi học sinh thấy thoải mái, tích cực phát huy những điểm mạnh, những hành vi tốt của mình.
1.2.3. Lợi ích của việc áp dụng PPKLTC
PPKLTC đem lại nhiều ích lợi không chỉ đối với giáo viên, cán bộ giáo dục, đối với học sinh mà còn đối với cả sự nghiệp giáo dục, sự phát triển của xã hội.
Đối với giáo viên: Khi áp dụng thành công PPKLTC, giáo viên sẽ giảm được áp lực công việc quản lý lớp học vì học sinh hiểu và chấp hành nội quy một cách tự nguyện và có trách nhiệm hơn. Giáo viên sẽ ít cảm thấy tức giận, căng thẳng trong việc đối xử và kỷ luật học sinh hơn. Mối quan hệ giữa thầy và trò cũng trở nên cởi mở, gần gũi, thân thiện hơn. Không khí ở lớp học, sân trường sẽ vui vẻ, thoải mái hơn. Từ đó, chất lượng của việc giảng dạy của giáo viên cũng sẽ được cải thiện.
Đối với học sinh: Khi giáo viên áp dụng PPKLTC, học sinh sẽ có nhiều cơ hội được chia sẻ và bày tỏ, được mọi người quan tâm hơn. Các em sẽ cảm thấy tự tin hơn khi đứng trước thầy cô và bạn bè. Các em cũng tích cực, chủ động, sáng tạo hơn trong học tập. Ngoài ra, các em cũng phát triển được tốt hơn các kỹ năng sống về mặt xã hội.
Đối với ngành giáo dục và xã hội: Rõ ràng khi việc áp dụng PPKLTC giúp ích cho học sinh và giáo viên thì chất lượng của việc dạy và học sẽ được nâng lên.
Bên cạnh đó, PPKLTC sẽ giúp giảm bớt các vụ việc bạo lực trong nhà trường cũng như ngoài xã hội, một vấn đề khá nóng trong thời gian gần đây..
1.2.4. Một số nội dung cơ bản của PPKLTC
Khi đề cập đến PPKLTC, rất nhiều khía cạnh khác nhau về kiến thức và kỹ năng dành cho người lớn được đề cập. Tuy nhiên, một số kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất về PPKLTC cần thiết đối với giáo viên là:
a) Hiểu nhu cầu của trẻ và mục đích sai lệch của hành vi tiêu cực ở trẻ
Ngoài những nhu cầu sinh lý tối thiểu như ăn, uống, ngủ, nghỉ,… cũng giống như người lớn, trẻ em còn cần được đáp ứng các nhu cầu về tâm lý, xã hội để phát triển toàn diện. Năm trong số những nhu cầu quan trọng nhất của trẻ bao gồm:
Được an toàn; Được yêu thương; Được tôn trọng; Được hiểu và cảm thông; và Được cảm thấy có giá trị.
Với học sinh, các em rất cần được giáo viên, cán bộ giáo dục trong nhà trường có những cách thức xử sự phù hợp để đáp ứng những nhu cầu trên của mình. Các em sẽ cảm thấy được an toàn nếu thầy cô có lòng khoan dung, coi lỗi lầm là cơ hội để trẻ sửa sai và thay đổi tốt hơn. Các em sẽ thấy mình được yêu thương khi thầy cô có những cử chỉ nhẹ nhàng, ân cần, dịu dàng, thân mật. Khi thầy cô lắng nghe, tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ suy nghĩ và động viên các em kịp thời, các em sẽ thấy mình được cảm thông. Sự lắng nghe và tiếp thu ý kiến của học sinh một cách phù hợp cũng sẽ giúp các em thấy mình có giá trị và được tôn trọng.
Tại sao học sinh hiện nay thường mắc lỗi, thường có nhiều hành vi không đúng mực hơn trước? Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận được nhiều phản

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

10;11;12
Chủ nhiệm
4.5/5
TÀI LIỆU WORD

100.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)