SKKN Biện pháp phát triển năng lực tự học tự chủ cho học sinh THCS thông qua công tác chủ nhiệm
- Mã tài liệu: MT0353 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 342 |
Lượt tải: | 8 |
Số trang: | 31 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh Mai |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Vĩnh Quang |
Năm viết: | 2022-2023 |
Số trang: | 31 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh Mai |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Vĩnh Quang |
Năm viết: | 2022-2023 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Biện pháp phát triển năng lực tự học tự chủ cho học sinh THCS thông qua công tác chủ nhiệm “ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
3.1. Biện pháp 1: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của năng lực tự chủ và tự học
3.2. Biện pháp 2: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng và quản lý kế hoạch, nội dung năng lực tự chủ và tự học cho học sinh
3.3. Biện pháp 3: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh
3.4. Biện pháp 4: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc tăng cường phối hợp với các lực lượng giáo dục trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh
3.5. Biện pháp 5: Đổi mới kiểm tra, đánh giá, động viên, khuyến khích học sinh nhằm phát triển năng lực tự chủ và tự học
Mô tả sản phẩm
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng và phát triển năng lực tự chủ, tự học cho học sinh khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường phổ thông là một công việc có vị trí rất quan trọng. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cũng chỉ rõ các nhóm năng lực mà học sinh cần đạt được. Trong đó, năng lực tự chủ và tự học được xem là nhóm năng lực quan trọng nhất đối với học sinh. Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, có những thời gian học sinh chưa thể đến trường, việc tăng cường ý thức, rèn năng lực tự chủ, tự học để học sinh thích ứng với mọi điều kiện học tập trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Với mục tiêu là hình thành “5 phẩm chất, 10 năng lực”, cho học sinh, nền giáo dục trong thời đại mới đã khẳng định giáo viên nói chung và giáo viên làm công tác chủ nhiệm nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tạo bước chuyển nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học những năng lực cần thiết, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Trước thực tế đó, bản thân tôi thiết nghĩ giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm nói riêng và học sinh nói chung góp phần vào mục tiêu phát huy phẩm chất và năng lực, góp phần định hướng nghề nghiệp cho các em. Từ đó hướng đến mục đích đào tạo con người mới Việt Nam phát triển cân đối, hài hòa và toàn diện. Từ những vấn đề nêu trên, với kinh nghiệm thực tế trong công tác giáo viên chủ nhiệm, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp phát triển năng lực tự học tự chủ cho học sinh THCS thông qua công tác chủ nhiệm” góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường THCS.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm tại trường THCS.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trực tiếp tại trường THCS
4. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh và giáo viên trường THCS
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm về tự chủ và tự học
Tự chủ là làm chủ bản thân, làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành vi của mình trong mọi hoàn cảnh, tình huống luôn bình tĩnh tự tin và tự điều chỉnh hành vi của mình.
Quan niệm về tự học đã được các tác giả trong và ngoài nước đề cập dưới nhiều góc độ, hình thức khác nhau. Theo Thái Duy Tuyên: tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,… của người học. Theo Từ điển Giáo dục học: tự học là quá tình tự mình hoạt động, lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực tiếp của cơ sở đào tạo. GS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình.
Như vậy, tự chủ và tự học là quá trình người học tự thực hiện các nhiệm vụ học tập để chiếm lĩnh tri thức khoa học, rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo. Tự học có thể diễn ra cả ở trên lớp và ngoài lớp học, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được ban hành. Đó là một hoạt động mang tính tích cực, chủ động, tự giác nhằm đạt được mục tiêu học tập của người học.
1.2. Quan niệm về năng lực và năng lực tự chủ, tự học
Theo Chương trình Giáo dục của Bộ GD-ĐT, năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… để thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Từ quan niệm trên, có thể coi năng lực là tổng thể những phẩm chất tâm lí, sinh lí, tri thức, kĩ năng, thái độ và kinh nghiệm của mỗi cá nhân có khả năng hoàn thành một hoạt động với chất lượng cao.
Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn: năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kĩ năng rất phức hợp, bao gồm các kĩ năng và kĩ xảo, cần gắn với động cơ và thói quen tương ứng, giúp người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra. Năng lực tự học còn là sự bao hàm cả cách học, kĩ năng và nội dung học tập, là sự tích hợp tổng thể cách học và kĩ năng tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau.
Như vậy, có thể hiểu, năng lực tự chủ và tự học là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động; tự đặt ra được mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; khắc phục những sai sót, hạn chế của bản thân khi giải quyết các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc lời nhận xét của giáo viên, của bạn; biết tự tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong học tập. Năng lực tự chủ và tự học tuy là khả năng “bẩm sinh” của mỗi người nhưng cần được rèn luyện thường xuyên thông qua các hoạt động thực tiễn, nếu không nó sẽ chỉ là khả năng tiềm ẩn của con người.
1.3. Vai trò của hoạt động tự học
Trong quá trình học tập, hoạt động tự học có những vai trò sau:
– Nâng cao kiến thức và hiệu quả học tập. Trong quá trình tự học, học sinh cần vận dụng các năng lực trí tuệ để giải quyết vấn đề. Điều này đòi hỏi học sinh phải là chủ thể của quá trình nhận thức, biết cách tự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, phê phán,… để hiểu kiến thức sâu sắc hơn.
– Giúp học sinh có khả năng tự giải quyết các vấn đề học tập, biết vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong hoạt động tự học, kiến thức mà các em chiếm lĩnh được thông qua các hoạt động tư duy của bản thân. Người có khả năng tự học có thể thu thập và xử lí thông tin, biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn và tự kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập của mình.
– Hình thành các kĩ năng, phương pháp học tập khoa học. Khi tự học, các thao tác tư duy lặp đi lặp lại nhiều lần, góp phần hình thành cho học sinh các kĩ năng, phương pháp học tập cho người học. Do vậy, tự học là cốt lõi của cách học, như Bác Hồ đã từng nói: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”.
– Rèn luyện tư duy cho học sinh. Khi tự học,các em phải sử dụng các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, khái quát, trừu tượng hóa,… để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, do đó tư duy cũng được rèn luyện thường xuyên. Trong quá trình học tập, với cùng một lượng kiến thức nhưng các nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao, điều này giúp người học rèn luyện được các kĩ năng và năng lực giải quyết vấn đề, từ đó tư duy của người học cũng dần được phát triển.
– Nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin cho học sinh. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, các nguồn thông tin được cung cấp đa dạng dưới nhiều phương thức và hình thức khác nhau. Do vậy, nếu các em có kĩ năng tự học tốt sẽ vận dụng được nguồn thông tin phong phú, đa dạng trong việc thu nhận kiến thức cho mình. Ngày nay, tự học có vai trò quan trọng, là điều kiện quyết định thành công và có ý nghĩa đối với sự phát triển toàn diện của học sinh.
1.4. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh lớp chủ nhiệm tại trường THCS
Để học sinh biết tìm đến với hoạt động tự học, giáo viên chủ nhiệm cần giúp học sinh thấy rõ ý nghĩa của việc tự chủ và tự học: đó là sự chủ động sáng tạo và tự lực thực hiện nhiệm vụ học tập để từng bước chiếm lĩnh tri thức và vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách vững chắc. Tự học sẽ giúp con người phát triển tính tự giác, tự lực, không thụ động và ỷ lại vào người khác, quen với việc làm việc độc lập, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại văn minh, tự giúp mình bồi dưỡng hứng thú học tập, rèn luyện ý chí phấn đấu, kiên trì, nâng cao niềm tin vào năng lực bản thân.
Để kích thích cho học sinh biết khao khát, muốn chủ động thực hiện thêm các hoạt động học tập của mình để tự hệ thống, mở rộng, nâng cao và làm chủ lượng kiến thức đã được thầy cô giáo bộ môn truyền thụ ở mức độ cơ bản. Giáo viên chủ nhiệm phải hướng dẫn cho các em phương pháp tự học một cách tự giác và đầy chủ động: biết tự chủ về kế hoạch và hình thức tự học, có tổ chức và kiểm soát mức độ kết quả đạt được, biết phát hiện, sàng lọc, đúc kết, biết vận dụng… đối với nguồn kiến thức phong phú sinh động, rộng rãi…biết tự khai thác, nắm bắt khi thực hiện các hoạt động tìm tòi, khám phá, sáng tạo…để thỏa mãn ý thức học hỏi của bản thân.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng hoạt động tự học của học sinh trường THCS
Năng lực tự chủ và tự học của học sinh THCS bao gồm: ôn tập lại bài, làm các bài tập nhằm củng cố, vận dụng kiến thức, đọc sách giáo khoa tài liệu sách giáo khoa tham khảo để chuẩn bị bài mới, đọc các tài liệu liên quan làm bài tập nâng cao mở rộng khác.
Để nắm được hiện trạng, tôi tiến hành khảo sát “Em hãy cho biết mức độ các hoạt động em thường làm khi tự học ở nhà? “ về mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng, không bao giờ của học sinh thực hiện các nội dung tự học ở nhà và chúng tôi thu được kết quả như bảng 2.1.
Bảng 2.1. Cơ cấu mức độ các hoạt động khi tự học ở nhà của học sinh
TT | Các hoạt động | Thường xuyên | Thỉnh thoảng | Không bao giờ | |||
9A3 | 9A1 | 9A3 | 9A1 | 9A3 | 9A1 | ||
1 | Ôn lại bài cũ. | 48 | 90 | 44 | 10 | 8 | 0 |
2 | Làm bài tập theo yêu cầu | 50 | 75 | 38 | 25 | 12 | 0 |
3 | Đọc sách giáo khoa, chuẩn bị bài mới. | 26 | 20 | 46 | 55 | 28 | 25 |
4 | Hỏi và trao đổi bài với thầy cô giáo | 2 | 5 | 22 | 45 | 76 | 50 |
Qua bảng ta thấy rằng, học sinh THCS khi tự học ở nhà chuẩn học ôn tập bằng cách học nguyên lại vở ghi, xem lại lý thuyết và làm các bài tập là nội dung thường xuyên chủ yếu, và có rất ít học sinh chuẩn bị bài mới bằng cách đọc và nghiên cứu trước sách giáo khoa, tìm đọc các sách, tài liệu tham khảo. Đại đa số giáo viên và học sinh cho rằng học sinh ít khi trao đổi với thầy cô giáo. Chứng tỏ, các em học sinh còn học hành mang tính thụ động đối phó với thầy cô giáo. học sinh chưa đào sâu suy nghĩ, chưa chủ động và sáng tạo trong học tập, thiếu mạnh dạn và tự tin khi trao đổi với giáo viên.
Quá trình tự học ở nhà của học sinh ở nhà có nhiều môn học liên quan và làm các bài tập nâng cao. Điều này chứng tỏ rằng, mỗi học sinh khác nhau, các môn học có thời lượng, phương pháp và nội dung khác nhau.
Việc xác định mục tiêu cụ thể cho từng công việc gắn với ý nghĩa quan trọng gì, lý do thực hiện mục tiêu đó là gì? Một khi, mục tiêu có nhiều lý do hướng tới thì ta càng có động lực để hoàn thành nó.
Để đánh giá cách thức sắp xếp hoạt động tự học của học sinh THCS chúng tôi tiến hành khảo sát bằng cách đặt câu hỏi học sinh: “Em thường đặt mức độ ưu tiên trong việc sắp xếp các môn học theo tiêu chí nào?”. Sau khi khảo sát, chúng tôi thấy có sự khác nhau về mức độ ưu tiên trong sắp xếp môn học của các em học sinh.
Mặc dù vậy, theo kết quả khảo sát chỉ có 16% HS sắp xếp công việc theo mức độ quan trọng. Chứng tỏ rằng, số học sinh này đã nhận thức được tầm quan trọng trong công việc từ đó hoàn thành được công việc học tập của mình một cách có hiệu quả nhất.
Phần lớn học sinh sắp xếp việc học theo sở thích (24%), cảm xúc vì vậy nên kiểu người này thường làm việc theo cảm tính, công việc nào thích thì làm trước, không thích làm sau, không theo tuần tự, dễ bỏ dở công việc những môn học không đúng sở thích, làm theo kiểu qua chuyện và đối phó.
Đồng thời qua phỏng vấn sâu các em học sinh, chúng tôi cũng nhận thấy hình thức học tập của học sinh ở nhà cơ bản là tự học một mình, rất ít em học nhóm với bạn hay học với người khác.
2.2 Thực trạng hoạt động tự học của học sinh ở lớp
Hoạt động tự học cơ bản diễn ra ở thời gian ngoài giờ lên lớp. Hoạt động học trên lớp theo hướng đổi mới phương pháp dạy học thì giáo viên là tổ chức, hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và năng lực cho người học. Học sinh ở trên lớp hiện nay cần tích cực chủ động sáng tạo dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Như vậy, hoạt động tự học trên lớp là tự học có điều khiển có sắp xếp và quản lý điều chỉnh của giáo viên. Vì vậy, chất lượng hoạt động tự học trên lớp không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào người học mà còn phụ thuộc người dạy.
Để nắm hiện trạng hoạt động tự học của học sinh ở trên lớp tôi sử dụng câu hỏi khảo sát giáo viên và học sinh. Đối với học sinh tôi sử dụng câu hỏi khảo sát “Em hãy cho biết mức độ các hoạt động em thường làm khi khi học ở trên lớp?”. Đối với giáo viên tôi sử dụng câu hỏi “Theo thầy (cô), mức độ các hoạt động học sinh thường làm khi khi học ở trên lớp?”. Sau khi khảo sát, chúng tôi thu được kết quả bảng 2.2.
Các hoạt động học trên lớp của học sinh bao gồm: lắng nghe, ghi chép giảng bài của thầy cô giáo, sử dụng vở nháp và phiếu học tập để hoàn thành các nhiệm vụ mà thầy cô giao, hỏi và trao đổi bài với bạn bè, hỏi và trao đổi bài với thầy cô giáo. Có thể nói hoạt động tự học trên lớp là tự học có sự tổ chức, hướng dẫn và điều chỉnh của thầy cô giáo. Qua số liệu thống kê, chúng tôi thấy rằng hoạt động học tập của học sinh trên lớp mức độ thường xuyên là lắng nghe, ghi chép giảng bài của thầy cô giáo, sử dụng vở nháp và phiếu học tập để hoàn thành các nhiệm vụ mà thầy cô giao, rất ít học sinh hỏi và trao đổi bài với bạn bè, hỏi và trao đổi bài với thầy cô giáo. Điều này chứng tỏ, hoạt động học tập của các em ở lớp phần lớn đang còn thụ động, chưa tích cực, chủ động, sáng tạo.
Bảng 2.2. Cơ cấu mức độ hoạt động học khi học ở lớp của học sinh
TT | Các hoạt động | Thường xuyên | Thỉnh thoảng | Không bao giờ | |||
9A3 | 9A1 | 9A3 | 9A1 | 9A3 | 9A1 | ||
1 | Lắng nghe, ghi chép giảng bài của GV | 86 | 90 | 12 | 10 | 2 | 0 |
2 | Sử dụng vở nháp và phiếu học tập để hoàn thành các nhiệm vụ mà thầy cô giao. | 14 | 35 | 80 | 65 | 6 | 0 |
3 | Hỏi và trao đổi bài với bạn bè. | 36 | 10 | 56 | 65 | 8 | 25 |
4 | Khai thác kiến thức từ Internet | 6 | 5 | 54 | 60 | 40 | 35 |
2.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý của giáo viên chủ nhiệm đối với hoạt động tự học của học sinh trường
* Những điểm mạnh
– Nhiều học sinh đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tự học.
– Nhà trường đã luôn luôn chỉ đạo, tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, khuyến khích học sinh tự học.
– Cán bộ giáo viên, công nhân viên nhà trường từ giáo viên bộ môn đến GVCN, cán bộ thư viện luôn luôn có ý thức đổi mới công tác định hướng, hoạt động dạy học tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực chủ động trong quá trình học tập của mình.
– Qua thực tế trong thời gian gần đây chất lượng giáo dục đại trà cũng như chất lượng giáo dục mũi nhọn của nhà trường ngày càng nâng cao, vì thế trường ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong hệ thống các trường THCS trong toàn khu vực.
* Những điểm yếu
– Nhiều học sinh chưa có động cơ học tập đúng đắn, chưa xác định nội dung, phương pháp, hình thức tự học phù hợp. Đa số học sinh còn thiếu kỹ năng tự học.
– Công tác xây dựng, bồi dưỡng động cơ tự học cho học sinh chưa được nhà tường quan tâm đúng mức. Việc hướng dẫn học sinh lập kế hoạch tự học và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học chưa thường xuyên. Công tác tổ chức bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng tự học cho học sinh chưa được chú trọng.
– Sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục của nhà trường trong việc tổ chức, hướng dẫn hoạt động tự học của học sinh chưa đồng bộ. Các điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ tự học của học sinh chưa đáp ứng đầy đủ.
3. Giải pháp thực hiện
3.1. Biện pháp 1: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc nâng cao nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của năng lực tự chủ và tự học
Trong bối cảnh thực hiện chương trình GDPT 2018 đang hướng đến mục tiêu giúp người học phát triển và nâng cao năng lực, phẩm chất thì vai trò của một giáo viên cực kì quan trọng, đặc biệt là giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Với trách nhiệm giáo dục, dìu dắt học sinh từng bước tiến bộ đến hoàn thiện các yêu cầu về nhận thức, tri thức và nhân cách, người giáo viên làm công tác chủ nhiệm không chỉ truyền thụ kiến thức mà cần phải định hướng đúng đắn và hiệu quả cho học sinh biết tự nâng cao năng lực và phẩm chất của bản thân trên cơ sở đã có nền tảng kiến thức giáo khoa. Có nghĩa là: phải tạo môi trường giáo dục cho học sinh biết tự nhận thức và hành động để tự hoàn thiện bản thân, chỉ cho học sinh những con đường đến với kho tàng kiến thức đang rộng mở của nhân loại bằng cách tự chủ và tự học.
Trong yêu cầu của giáo dục thời đại mới, việc tự chủ và tự học là một xu thế mà mỗi học sinh cần vận động song song với quá trình được thầy cô dẫn dắt trong việc tích lũy kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho bản thân. Tuy nhiên, nhận thức của học sinh về hoạt động tự chủ, tự học còn mờ nhạt, chưa thực sự coi trọng việc tự học, dành thời gian cho việc tự học rất ít, chất lượng tự học còn thấp, chưa có phương pháp tự học… và một số có cố gắng tự học nhưng chỉ với phương pháp sử dụng thường xuyên nhất là học thuộc lòng bài giảng.
Chính vì thế giáo viên chủ nhiệm cần nâng cao nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của năng lực tự chủ và tự học để giúp học sinh có được những ảnh hưởng tích cực và đạt được những kết quả tốt đẹp trong tự luyện, tự rèn của quá trình tự học. Tự chủ, tự học là luôn học hỏi, học tập ở mọi nơi mọi lúc, phải kết hợp cả “learn” (học thường xuyên và linh hoạt) và “study” (học tập, nghiên cứu bài bản). Bên cạnh đó, phải luôn giữ tinh thần, ý chí và nghị lực học tập, học hỏi không ngừng chứ không phải học theo kiểu “được chăng hay chớ”. Tinh thần tự chủ, tự học cũng là một loại năng lực được rèn luyện, thậm chí được coi là một trong những năng lực cá nhân quan trọng trong một số khung năng lực được xây dựng cho cán bộ nhân viên của nhiều tổ chức, công ty hiện nay. Nghị lực học tập phải được thể hiện qua sự quyết tâm, bền bỉ từng ngày chứ không thể học dồn một lúc, học cho xong, “học tới đâu hay tới đó” hoặc chỉ cần tặc lưỡi lười biếng một thời gian là tinh thần và ý chí học tập sẽ đi xuống, khó kéo lại được rồi dần trở nên an phận, tụt hậu. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật làm cho cái mới cũng trở nên cũ rất nhanh, chỉ cần buông xuôi không cập nhật là trở nên lạc hậu ngay lập tức với thời cuộc, xu thế, công nghệ. Cần tự chủ, tự học một cách chủ động, sáng tạo chứ không mang tính đối phó hay chạy theo thành tích. Việc trau dồi kiến thức không chỉ loanh quanh ở điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở giá trị con người và sự đóng góp những điều có ích cho xã hội. Nhất là với trí tuệ của người trẻ, cần phải có sự thông minh trong quá trình tự học ở mọi lúc mọi nơi. Học để biết, rồi kế thừa cái biết sau khi học để tiếp tục đổi mới, sáng tạo, phát triển thêm thành tri thức mới. Như thế thì mới thể hiện đúng vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đúng như phương châm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.
Từ đó, giúp học sinh có được sự phát triển kịp thời, vững chắc và vượt trội từ khả năng và công sức của chính mình trong phương pháp tự học. Giáo viên chủ nhiệm cần thông qua các giờ lên lớp, sinh hoạt lớp, các kênh thông tin để giáo dục, nâng cao nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của năng lực tự chủ và tự học. Giáo viên chủ nhiệm kể cho các em nghe những tấm gương tiêu biểu về tự chủ và tự học. Có rất nhiều những danh nhân đã thành nhân tài của đất nước từ việc họ tự học như: Lương Thế Vinh, Mạc Đinh Chi, Hồ Chí Minh… Đây là những người có sự kiên trì trong quá trình tự học và là những tấm gương mà chúng ta cần noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng đêm, sau 12 giờ lao động nặng nhọc Người lại tự học tiếng Pháp bằng cách học thuộc lòng mỗi ngày mười từ, và cứ thế Người đã thông thạo không chỉ tiếng Pháp mà còn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, tiếng Anh. Người cũng đã từng nói “Trong cách học. phải lấy tự học làm nòng cốt”. Hay trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi là đứa trẻ nhà nghèo nhưng tinh thần ham học hỏi và khả năng tự học nên ông đã thi đỗ Trạng nguyên và trở thành một vị quan nổi tiếng dưới thời nhà Trần.
Từ đó, giáo viên chủ nhiệm giúp các em hiểu được tầm quan trọng của việc tự chủ và tự học, các em sẽ noi gương và học tập kinh nghiệm của những thể hệ đi trước để đưa ra một phương pháp tự học hợp lí đem lại hiệu quả cho bản thân. Việc tự chủ, tự học chính là chìa khóa của sự thành công, đưa chúng ta đến với tương lai tươi sáng ở phía trước. Hiểu được tầm quan trọng của việc tự chủ và tự học, học sinh sẽ có ý thức tự giác hơn trong quá trình học tập, và sẽ mang lại kết quả cao.
3.2. Biện pháp 2: Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng và quản lý kế hoạch, nội dung năng lực tự chủ và tự học cho học sinh
Giáo viên chủ nhiệm tổ chức biên soạn các quy định cụ thể nêu rõ quyền hạn, trách nhiệm về công tác quản lý của học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội khác đối với hoạt động tự chủ và tự học của học sinh; nêu rõ từng quy định trong giảng dạy, trong học tập về nội dung, phương pháp, thời gian và các điều kiện phục vụ cho hoạt động tự chủ và tự học của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm trong việc xây dựng và quản lý kế hoạch, nội dung năng lực tự chủ và tự học cho học sinh với các kỹ năng cơ bản như sau:
* Kỹ năng định hướng
Trước tiên, để quá trình tự chủ, tự học diễn ra thành công học sinh cần thiết lập cơ sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, giáo viên chủ nhiệm hướng học sinh trả lời được các câu hỏi:
– Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
– Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa.
– Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân.
* Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu học sinh xác định được mục tiêu, nội dung và phương pháp học. Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm giúp người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, học sinh có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau:
– Thứ nhất, học sinh phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
– Thứ hai, khi lập kế hoạch, học sinh phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó.
* Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh một số kỹ năng sau:
– Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
– Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]