SKKN Biện pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực giao tiếp hợp tác cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm THCS

4.5/5

Giá:

100.000
Cấp học: THCS
Môn: Chủ nhiệm
Lớp:
Bộ sách:
Lượt xem: 439
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
32
Lượt tải:

8

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Biện pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực giao tiếp hợp tác cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm THCS “ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

3.1. Biện pháp 1: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong công tác chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường THCS
3.2. Biện pháp 2: Phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nhà trường để tổ chức các hoạt động trải nghiệm nhằm phát triển năng lực GT&HT cho HS
3.3. Biện pháp 3: Thiết kế bài kiểm tra đánh giá năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh

Mô tả sản phẩm


A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm gần đây, đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết và có xu hướng mang tính toàn cầu để các quốc gia nâng cao nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội nhằm đảm bảo phát triển bền vững. Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước tiến vượt bậc về kinh tế xã hội, đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế của nước ta chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, môi trường văn hoá còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa hội đủ các nhân tố để phát triển nhanh và bền vững. Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội nước ta đã đề ra mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trách nhiệm, có văn hoá, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hoá. Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục và những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mỹ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống.

Năng lực giao tiếp và hợp tác (NLG T&HT) đóng vai trò, vị trí quan trọng của con người trong xã hội hiện đại. Không chỉ là cầu nối gắn kết mối quan hệ giữa mọi người mà năng lực giao tiếp và hợp tác còn là chìa khóa dẫn lối thành công trong mọi lĩnh vực. Tương tác với người khác sẽ tạo cơ hội trao đổi và phản ánh về ý tưởng. Hành động xây dựng ý tưởng để chia sẻ thông tin hoặc lập luận để thuyết phục người khác là một phần quan trọng trong học tập và làm việc. Giao tiếp và hợp tác tốt sẽ giúp chúng ta chia sẻ trách nhiệm, hỗ trợ lẫn nhau để phát huy tốt tiềm năng của từng người. Sự liên kết, phối hợp ăn ý nhau sẽ tạo ra được nhiều giá trị hơn so với việc tận dụng sức mạnh của từng người riêng lẻ.

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) giữ vai trò rất quan trọng trong dạy học và giáo dục. Trong chương trình GDPT 2018,HĐTNST là hoạt động giáo dục bắt buộc, vì qua hoạt động này sẽ giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn, từ đó hình thành những phẩm chất cần thiết như: Yêu nước, nhân ái, trách nhiệm, trung thực, chăm chỉ.Việc đưa hoạt động trải nghiệm vào trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách giữa nội dung giáo dục với thực tiễn đời sống xã hội, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động.

Để phát huy được năng lực giao tiếp và hợp tác cũng như hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học và giáo dục ở nhà trường, ngoài đội ngũ quản lí, các giáo viên bộ môn thì vai trò giáo viên chủ nhiệm cũng hết sức quan trọng. Muốn những hoạt động này đạt hiệu quả cao, giáo viên chủ nhiệm phải luôn có ý thức đổi mới và vận dụng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau. Trên thực tế, vài năm trở lại đây, công tác chủ nhiệm lớp ở các trường phổ thông đã có một số đổi mới. Giáo viên chủ nhiệm đã lồng ghép hoạt động trải nghiệm trong việc giáo dục học sinh. Qua các hoạt động đổi mới đó, học sinh cảm thấy say mê, hứng thú và tham gia tích cực. Tuy nhiên, các hoạt động trải nghiệm đó dưới những hình thức còn đơn giản, chủ yếu là hoat đông ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá.., các nội dung liên quan đến các hoạt động giáo dục trong công tác chủ nhiệm còn ít, thời gian tổ chức các hoạt động giáo dục nếu có thường vào các dịp lễ, tết… và cách thức tổ chức chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa có những cơ sở lý thuyết, mô hình thực tiễn nào chỉ dẫn cụ thể.

Trong quá trình giảng dạy và chủ nhiệm lớp, chúng tôi đã trăn trở, tìm tòi các biện pháp với nhiều cách tiếp cận khác nhau với mong muốn đạt hiệu quả tốt nhất đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh, góp phần đổi mới dạy học phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước và xu thế giáo dục hiện đại. Xuất phát từ những lý do trên,chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và áp dụng đề tài: “Biện pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực giao tiếp hợp tác cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm THCS

2. Mục đích nghiên cứu

Năng lực giao tiếp và hợp tác chiếm giữ một vị trí đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh THCS. HS THCS luôn thích thú, hăng say trong việc thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm của mình thông qua giao tiếp và hợp tác. Song các em còn chưa hiểu rõ mục đích, cách thức trong việc thực hiện quá trình giao tiếp và hợp tác, điều đó khiến cho hoạt động giao tiếp không đạt được hiệu quả như mong muốn. Thông qua đề tài nghiên cứu, người viết muốn hình thành, phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác ở học sinh THCS, giúp định hướng cho các em cách trình bày quan điểm, suy nghĩ cá nhân, cách lắng nghe, lĩnh hội trong giao tiếp, đặc biệt cách hợp tác trong hoạt động nhóm thông qua hoạt động trải nghiệm.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh bằng hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh ở trường THCS.

4. Đối tượng nghiên cứu 

Công tác chủ nhiệm của GVCN và năng lực giao tiếp của học sinh trường THCS.

B. NỘI DUNG 

1. Cơ sở lý luận

Năng lực có nguồn gốc tiếng Latinh “Competentia”, có nghĩa là gặp gỡ. Khái niệm năng lực đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và có mặt trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau: Tâm lý học, Triết học, Xã hội học, Giáo dục học, Kinh tế học… Năng lực có một số từ đồng nghĩa hoặc nhiều nghĩa tương đồng như: “Khả năng” (ability); “Năng khiếu” (aptitude); “hiệu suất” (efficiency); “Hiệu quả” (effectiveness) và “Kỹ năng” (Skill). Vì các định nghĩa khoa học cho khái niệm năng lực rất đa dạng nên không thể xác định được một định nghĩa tập trung đơn lẻ. Tuy nhiên vẫn có thể giải thích và phát triển khái niệm năng lực theo những mục đích khoa học và thực tiễn.

Giao tiếp là một quá trình trong đó các bên tham gia tạo ra hoặc chia sẻ thông tin, cảm xúc với nhau nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Theo cách quan niệm này, giao tiếp không đơn thuần là một hành vi đơn lẻ mà nó nằm trong một chuỗi các tư duy hay hành vi mang tính hệ thống trong bản thân các bên tham gia giao tiếp hoặc giữa họ với nhau. Thành phần các bên tham gia vào quá trình giao tiếp có thể rất đa dạng nếu xét giao tiếp theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, giao tiếp mà chúng ta nói ở đây giới hạn vào con người với tư cách là các bên tham gia giao tiếp.

Hợp tác là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình lao động của con người. Nó diễn ra thường xuyên trong gia đình và trong xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, hợp tác là cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó, nhằm một mục đích chung. Sự hợp tác diễn ra ở các mặt:

  • Thể hiện khả năng làm việc hiệu quả và tôn trọng với các nhóm đa dạng;
  • Vận dụng tính linh hoạt và sẵn lòng giúp ích trong việc thực hiện các thỏa hiệp cần thiết để đạt được mục tiêu chung;
  • Giả định trách nhiệm được chia sẻ đối với công việc hợp tác và các đóng góp cá nhân có giá trị được thực hiện bởi mỗi thành viên trong nhóm.

Theo Wikipedia: Trải nghiệm là kiến thức hay sự thành thạo một sự kiện hoặc một chủ đề bằng cách tham gia hay chiếm lĩnh nó. Trong triết học, thuật ngữ “kiến thức qua thực nghiệm” chính là kiến thức có được dựa trên trải nghiệm. Một người trải nghiệm nhiều ở một lĩnh vực cụ thể nào đó có thể được coi như chuyên gia của lĩnh vực đó. Khái niệm “trải nghiệm” dùng để chỉ phương pháp làm ra kiến thức hay quy trình làm ra kiến thức chứ không phải là kiến thức thuần túy được đưa ra, là kiến thức dùng.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Trải nghiệm là trải qua, kinh qua” [8; 1020]. Quan niệm này có phần đồng nhất với quan điểm triết học khi xem trải nghiệm chính là kết quả của sự tương tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác này bao gồm cả hình thức và kết quả của các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao gồm cả kĩ thuật và kĩ năng, các nguyên tắc hoạt động và phát triển thế giới khách quan.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sáng tạo là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần; Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có” [8; 847].

Theo góc nhìn sư phạm, trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó học sinh, sinh viên được trực tiếp trải nghiệm trong nhà trường hoặc xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục. Qua đó, các bạn được phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm cá nhân.

Như vậy, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất và phát huy tiềm năng sáng tạo của học sinh.

Nhà trường là một thiết chế xã hội, thay mặt xã hội làm nhiệm vụ giáo dục HS thành những con người theo mong đợi của gia đình, xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội cùng có trách nhiệm giáo dục cho HS các năng lực nói chung và năng lực giao tiếp, hợp tác nói riêng, để các em vững vàng, tự tin, thành công trong cuộc sống. Cần kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội theo chức năng và vai trò của mình, trong đó nhà trường luôn có vai trò quyết định quyết định đối với sự hình thành và phát triển các năng lực giao tiếp hợp tác của các em. Nhà trường có phương thức giáo dục đặc trưng, đó là có chương trình, kế hoạch giáo dục GTS đạt mục tiêu giáo dục của nhà trường và đáp ứng những yêu cầu của xã hội.

Nếu nhà trường đóng vai trò quyết định thì  GVCN đóng vai trò chủ đạo quyết định đến chất lượng, hiệu quả giáo dục năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS của nhà trường. Bởi GVCN không những thay mặt hiệu trưởng quản lí HS trong mọi hoạt động giáo dục của nhà trường mà còn trực tiếp giáo dục năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS thông qua bộ môn mình giảng dạy và thông qua công tác chủ nhiệm của mình.

2. Cơ sở thực tiễn

* Về phía nhà trường

Để giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS một cách bài bản và hoàn thiện hơn. Thực tế trong vài năm trở lại đây, trường chúng tôi đã quan tâm đến hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) trong hoạt động dạy học cũng như hoạt động giáo dục, chẳng hạn như trường đã tổ chức các câu lạc bộ: Văn học dân gian, tiếng Anh giao tiếp học đường, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục ngoài giờ lên lớp, võ thuật, thư viện xanh…, thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cấp trường, tham dự thi cấp tỉnh, cấp quốc gia.., tổ chức các hoạt động dã ngoại: tham quan các di tích lịch sử như quê Bác, Truông bồn, ngã ba Đồng Lộc, quê hương đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, đền thờ hoàng đế Quang Trung, tham quan các mô hình sản xuất nhỏ ở địa phương, tổ chức các diễn đàn… Bước đầu thực hiện, kinh nghiệm chưa nhiều song thực sự đã có những chuyển biến tích cực. Thông qua các hoạt động này các em được khám phá về bản thân, phát huy năng lực sáng tạo của mình, hình thành phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác với bạn bè đề tổ chức hoạt động và đặc biệt đem lại cho các em sự hứng thú khi tham gia.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục phát triển NLGT HT cho HS bằng HĐ TNST trong nhà trường nói chung, trong công tác chủ nhiệm nói riêng vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

  • Hình thức tổ chức chưa đồng bộ, chưa phong phú, đa dạng.
  • Việc tổ chức còn mang tính nhất thời, chưa thường xuyên, chưa thực sự được coi trọng từ việc lập kế hoạch, triển khai hoạt động cho đến việc đánh giá, đúc rút kinh nghiệm.
  • Việc xử lý kết quả chưa được chú trọng, chưa thúc đẩy được sự say mê, sáng tạo của học sinh.

* Về phía giáo viên

Trong những năm gần đây, giáo viên đã quan tâm đến việc đổi mới trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là việc đổi mới các hình thức tổ chức các hoạt động liên quan đến các vấn đề trong công tác chủ nhiệm, trong đó có việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh trong các giờ sinh hoạt lớp, chào cờ, hướng nghiệp, tổ chức câu lạc bộ, lao động … Tuy nhiên việc tổ chức vẫn còn những hạn chế:

– Chưa có kế hoạch cụ thể, còn mang tính nhất thời, chưa thường xuyên.

– Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng chưa chú trọng tới phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định hướng phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác, cần phải thay đổi. 

– Chưa tích cực hóa một cách hiệu quả những hoạt động của chủ thể học sinh

– Chưa tạo được cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong không khí hào hứng của lớp học và thái độ dễ hợp tác của những người cùng tham gia…

– Chưa tạo cho học sinh nhu cầu muốn hoạt động, muốn được bộc lộ…

– Chưa thể hiện được vai trò quan trọng của giáo viên trong việc hướng dẫn, tổ chức các hoạt động

– Cụ thể: Giờ sinh hoạt lớp thường được tổ chức như một tiết học khô khan, thậm chí có phần cứng nhắc. Nội dung thường chủ yếu tập trung nhận xét, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong các hoạt động thực hiện nề nếp của các lớp, phê bình những học sinh vi phạm nội quy của nhà trường, chưa chú trọng vào việc tổ chức các nội dung theo chủ đề tuần, tháng, người điều hành các hoạt động là giáo viên chủ nhiệm hoặc bí thư đoàn trường. Những tiết sinh hoạt như vậy chưa tạo cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động để phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác. Việc tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục hướng nghiệp nói chung, tư vấn hướng nghiệp nói riêng chưa hiệu quả.

Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu thực trạng của việc giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS qua công tác chủ nhiệm bằng phiếu điều tra khảo sát GVCN trong trường THCS …

  • Nội dung khảo sát như sau:

Phiếu khảo sát thực trạng giáo dục của giáo viên

Họ và tên giáo viên………………………………………………

– Giảng dạy môn……………………Chủ nhiệm lớp………….

Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu (x) vào ô trống trong bảng có câu trả lời phù hợp với thầy /cô

Câu hỏi:

– Thầy/cô có thường xuyên tổ chức đa dạng các biện pháp giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác bằng HĐ TNST cho HS lớp mình chủ nhiệm không?

– Thầy/ cô đã thực sự hài lòng với hiệu quả giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS bằng HĐ TNST ở lớp mình chủ nhiệm hay chưa?

  • Kết quả thu được như sau:

 

                  Nội dung khảo sát
Thường xuyên Không thường xuyên Hiệu quả giáo dục
  Hài lòng Chưa hài lòng
12/33

36,37%

21/33

63,63%

10/33

30,30%

23/33

69,70%

Từ kết quả khảo sát đó, chúng tôi nhận thấy: Phần lớn GVCN chưa đầu tư thời gian và tâm huyết vào việc giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS lớp mình. Hoặc cũng có những giáo viên tâm huyết hơn họ có giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS thông qua tiết sinh hoạt lớp, nhưng thực hiện không thường xuyên và bài bản. Cũng chính vì thế mà phần lớn các GVCN chưa hài lòng với hiệu quả giáo dục nội dung này cho HS lớp mình.

* Về phía học sinh:

  • Học sinh hiện nay kĩ năng sống còn nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục chúng ta mới chỉ quan tâm đến việc dạy văn hoá mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy kĩ năng cho các em như kĩ năng tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông… học sinh ngày càng lười hoạt động hơn ảnh hưởng đến quá trình phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác của các em.
  • Học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động, các em chưa được chủ động tham gia tất cả các khâu trong tiến trình hoạt động.
  • Chưa chủ động tương tác với thầy, vẫn duy trì lối học thụ động, ngại hợp tác, ngại thực hành, ngại sáng tạo, thậm chí ngại giao tiếp, bày tỏ quan điểm chính kiến của mình. Nhiều em chưa thực sự quan tâm, hứng thú với các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, chưa tham gia tích cực vào các hoạt động do giáo viên tổ chức, hướng dẫn để trải nghiệm, để kiến tạo những giá trị mới.

Để có kết luận xác đáng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu thực trạng học tập của HS. Cụ thể, chúng tôi đã phát phiếu điều tra cho HS ở nhiều khối lớp khác nhau trong trường để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình về việc giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác qua công tác giáo dục của người GVCN.

  • Nội dung khảo sát như sau:

Phiếu khảo sát thực trạng học tập của học sinh

Họ và tên học sinh………………………………………………………….

Khối/Lớp…………………………………………………….

Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô trống trong bảng có câu trả lời phù hợp với em.

Câu hỏi:

– Em có thường xuyên được học để có thể phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác bằng hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong các hoạt động giáo dục do GVCN mình tổ chức hay không?

– Em có mong muốn được học để phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác từ những hoạt động giáo dục do GVCN tổ chức hay không?

– Kết quả thu được như sau:

 

TT Khối

/Lớp

Nội dung khảo sát
Đã được học Chưa từng được học Có mong muốn Không mong muốn
1 7 168/505

33,26%

337/505

66,73%

500/505

99%

5/505

1,0%

2 8 165/459

35,9%

294/459

64,05%

455/459

99,13%

4/459

0,87%

3 9 160/443

36,11%

283/443

63,88%

440/443

99,32%

3/443

0,68

 

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy:

+ HS ở các khối lớp chủ yếu không được học một cách thường xuyên, bài bản, có hệ thống các năng lực giao tiếp và hợp tác thông qua các hoạt động giáo dục của GVCN. Có chăng, HS chủ yếu được học thông qua một số chương trình ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt tập thể do nhà trường tổ chức. Nhà trường không xây dựng nội dung chương trình giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác đưa vào dạy học chính khóa, các tiết sinh hoạt lớp cho GVCN.

+ Phần lớn HS đều mong muốn GVCN lớp mình sẽ đưa nội dung giáo dục phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác vào trong các hoạt động trải nghiệm đa dạng của lớp.

3. Giải pháp thực hiện

3.1.  Biện pháp 1: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong công tác chủ nhiệm nhằm phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh ở trường THCS

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,… Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định. Tùy thuộc vào thực tiễn, kế hoạch giáo dục của nhà trường và đặc điểm học sinh lớp chủ nhiệm mà chúng ta có thể lựa chọn những hình thức phù hợp. Trong khuôn khổ của sáng kiến này, chúng tôi đề xuất một số hình thức sau:

* Hình thức đóng vai

Đóng vai là phương pháp giáo dục giúp học sinh thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em. Đóng vai thường không có kịch bản cho trước mà học sinh tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần quan trọng nhất của phương pháp này mà là xử lí tình huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó.

Đóng vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực học sinh. Thông qua đóng vai, học sinh được rèn luyện, thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó.

Thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai cho phép học sinh thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như trong cuộc sống, các em mong muốn có được một vai yêu thích, khi đóng một vai học sinh bước ra từ chính bản thân mình.

Một số năng lực được hình thành từ hình thức này: Năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp. Một số phẩm chất được phát triển từ giải pháp này: Trách nhiệm, nhân ái.

Các bước triển khai:

– Bước 1: Xác định tình huống đóng vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình huống mở; phù hợp với trình độ học sinh).

– Bước 2: Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trước khi tiến hành hoạt động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống sao cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng không đưa ra lời giải hay cách giải quyết tình huống. Kết thúc đóng vai là một kết cục mở để mọi người thảo luận.

– Bước 3: Thảo luận sau khi đóng vai: khi đóng vai kết thúc, người dẫn chương trình đưa ra các câu hỏi có liên quan để HS thảo luận.

Bước 4: Thống nhất và chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.

* Hình thức trò chơi:

Trò chơi là tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, việc làm hoặc hình thành một thái độ thông qua một trò chơi nào đó.

Trò chơi là một loại hoạt động giải trí, thư giãn đồng thời là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Việc lựa chọn trò chơi phù hợp sẽ có tác dụng rất tích cực tới con người nói chung và đặc biệt đối với học sinh nói riêng.

Trò chơi mang lại những thuận lợi trong quá trình tổ chức dạy học trải nghiệm rõ nét nhất là: việc phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn…

Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện học sinh, giúp các em nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thông minh, lòng ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ.Ngoài ra, trò chơi là phương tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho học sinh, phát huy năng lực học sinh.

Một số năng lực được hình thành từ hình thức này: Năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, thể chất, tin học. Một số phẩm chất được phát triển từ giải pháp này: Trách nhiệm, nhân ái, trung thực.

Một số trò chơi được sử dụng nhiều trong các hoạt động trải nghiệm ở trường phổ thông hiện nay như: Trò chơi ô chữ, trò chơi vận động, trò chơi mô phỏng game truyền hình…Có thể thấy tổ chức trò chơi là hoạt động quen thuộc dễ thực hiện trong quá trình học tập trải nghiệm và có ý nghĩa giáo dục tích cực.

Các bước triển khai:

Bước 1: Chuẩn bị trò chơi

  • Xác định đối tượng và mục đích của trò chơi: thông thường, trò chơi nào cũng có tính giáo dục, phụ thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau đối với loại, dạng trò chơi và người sử dụng, tổ chức trò chơi. Vì thế xác định đối tượng và mục đích trò chơi phù hợp là công việc cần thiết khi tổ chức trò chơi.
  • Cử người hướng dẫn chơi.
  • Thông báo kế hoạch, thời gian, nội dung trò chơi đến học sinh.
  • Phân công nhiệm vụ cho các lớp, tổ nhóm, đội chơi để chuẩn bị điều kiện phương tiện (lực lượng; phục trang như quần áo, khăn, cờ; còi; phần thưởng) cho cuộc chơi.

Bước 2: Tiến hành trò chơi

– Ổn định tổ chức, bố trí đội hình: tùy từng trò chơi, địa điểm tổ chức, số lượng người chơi mà giáo viên bố trí đội hình, phương tiện cho phù hợp, có thể theo hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn hay chữ U,….

– Giáo viên xác định vị trí cố định hoặc di động sao cho mọi khẩu lệnh các em đều nghe thấy, các động tác học sinh quan sát, thực hiện được, ngược lại bản thân giáo viên phải phát hiện được đúng, sai khi các em chơi.

– GV giới thiệu trò chơi phải ngắn gọn, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, bao gồm các nội dung sau: Thông báo tên trò chơi, chủ đề chơi; Nêu mục đích và các yêu cầu của trò chơi; Nói rõ cách chơi và luật chơi, cho học sinh chơi nháp/chơi thử 1 -2 lần, sau đó học sinh bắt đầu chơi thật.

Dùng khẩu lệnh bằng lời, nhạc, còi, chuông, trống để điều khiển cuộc chơi.

– Giáo viên hay nhóm trọng tài cần quan sát, theo dõi kỹ, chính xác để đánh giá thắng thua và rút kinh nghiệm….

Bước 3: Kết thúc trò chơi

– Đánh giá kết quả trò chơi: Giáo viên công bố kết quả cuộc chơi khách quan, công bằng, chính xác giúp học sinh nhận thức được ưu điểm và tồn tại để cố gắng ở những trò chơi tiếp theo.

– Động viên, khích lệ ý thức, tinh thần cố gắng của các em, tuyên dương, khen ngợi hay khen thưởng bằng vật chất, tạo không khí vui vẻ, phấn khởi và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong tập thể học sinh về cuộc chơi.

– Dặn dò các em những điều cần thiết (thu dọn phương tiện, vệ sinh nơi chơi…).

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

10;11;12
Chủ nhiệm
4.5/5
TÀI LIỆU WORD

100.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)