SKKN Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong lớp chủ nhiệm ở trường THPT

Giá:
100.000 đ
Môn: Chủ nhiệm
Lớp:
Bộ sách:
Lượt xem: 563
Lượt tải: 12
Số trang: 48
Tác giả: Bùi Thị Minh Mai
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: THPT Phạm Hồng Thái
Năm viết: 2021-2022
Số trang: 48
Tác giả: Bùi Thị Minh Mai
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: THPT Phạm Hồng Thái
Năm viết: 2021-2022

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong lớp chủ nhiệm ở trường THPT triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

– GVCN xác định mục tiêu, tìm hiểu chương trình HĐ GDHN của từng khối lớp và tiến hành xây dựng giáo án để tổ chức hiệu quả HĐ GDHN cho HS
– Tìm hiểu xu hướng nghề nghiệp của HS trong lớp chủ nhiệm
– Xác định năng lực, sở trường nghề nghiệp của HS trong lớp chủ nhiệm
– GVCN tư vấn cho HS về những nhóm nghề nghiệp theo nhu cầu thị trường lao động của xã hội

 

Mô tả sản phẩm

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tương lai của mỗi con người. Vì thế, lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm, đặc biệt là học sinh trung học phổ thông (THPT).Tuy nhiên một thực trạng hiện nay diễn ra ở hầu hết các trường THPT, đó là các em học sinh thường không xác định được nghề nghiệp và công việc phù hợp với điểm mạnh của bản thân. Phần lớn các em mơ hồ trong việc lựa chọn ngành nghề sau khi tốt nghiệp THPT. Dẫn đến nguồn lao động làm việc trái ngành nghề với năng suất lao động thấp và tỉ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Đặc biệt từ cuối năm 2019 đến nay đại dịch Covid -19 đã làm cho bao nhiêu ngành nghề phải ngưng trệ thậm chí nhiều ngành phải tự tìm lối đi khác để tồn tại trong tình hình mới. Đây lại là một vấn đề lớn cho học sinh 2k4 cần phải tính toán kỹ cho việc chọn nghề của mình .
Và trong bối cảnh trường học ở Việt Nam hiện nay khi lực lượng chuyên trách làm công tác tư vấn hướng nghiệp còn rất hạn chế, chỉ có một số trường tại thành phố lớn có cán bộ chuyên trách hoặc có giáo viên kiêm nhiệm làm công tác tư vấn hướng nghiệp học sinh. Do vậy, giáo viên chủ nhiệm vẫn được coi là lực lượng chủ chốt trong việc tư vấn, hỗ trợ cho học sinh về mọi mặt từ học tập, quan hệ-giao tiếp, hướng nghiệp và phát triển bản thân. Với nhiều năm giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, đặc biệt bản thân thường được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 12. Bản thân rất tâm huyết với việc định hướng ngành nghề cho học sinh lớp mình chủ nhiệm và cũng có nhiều tư vấn cho học sịnh lớp mình giảng dạy. Đã được nhiều thế hệ học sinh yêu quý và trân trọng với những tư vấn cho các em chọn đúng ngành nghề, để sau đó có nhiều em đã trưởng thành và phát triển với ngành nghề mình chọn lựa. Vì vậy, trong khuôn khổ sáng kiến này, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản, và định hướng cụ thể để góp phần vào việc định hướng nghề nghiệp cho các em đạt chất lượng, chúng tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong lớp chủ nhiệm ở trường THPT Phạm Hồng Thái.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
– Nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT Phạm Hồng Thái;
– Giúp học sinh lớp chủ nhiệm có cái nhìn đúng đắn hơn về dự định nghề nghiệp trong tương lai của mình ;
– Tìm ra xu hướng chính, ở học sinh THPT nói riêng và ở giới trẻ nói chung, trong lựa chọn việc làm nghề nghiệp của họ .

thân.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về nghề nghiệp và việc chọn nghề lí tưởng cho bản

– Khảo sát và đánh giá thực trạng việc định hướng nghề nghiệp học sinh trung

học phổ thông Phạm Hồng Thái, tỉnh Nghệ An.
– Đề xuất các giải pháp định hướng nghề nghiệp cho học sinh lớp chủ nhiệm qua giáo viên chủ nhiệm lớp.
3. Giới hạn nghiên cứu.
– Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và các giải pháp hướng nghiệp định hướng nghề nghiệp cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp.
– Địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THPT Phạm Hồng Thái, tỉnh Nghệ An.
– Thời gian nghiên cứu: Trong năm học 2020-2021; 2021-2022
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về nghề nghiệp, định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
– Tổ chức thực hiện các giải pháp định hướng nghề nghiệp ở các khối lớp, đặc biệt khối 12.
– Phương pháp điều tra: dùng các phiếu điều tra
– Phương pháp thử nghiệm sư phạm: GV thực hiện thí điểm với lớp chủ nhiệm 12A2 năm học 2019-2010 và 2020-2021. Đây là phương pháp góp phần không nhỏ tới sự thành công của giải pháp.
5. Đóng góp của đề tài
– Hệ thống hóa nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT.
– Làm sáng tỏ thực trạng công tác hướng nghiệp và định hướng nghề nghiệp của Ban giám hiệu và học sinh THPT Phạm Hồng Thái, tỉnh Nghệ An.
– Tổ chức thực hiện các giải pháp hướng nghiệp kết hợp giáo viên chủ nhiệm cho học sinh lớp chủ nhiệm.
– Kết quả ngiên cứu đề tài là tài liệu tham khảo cho công tác hướng nghiệp trong các trường phổ thông.

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận.
1.1. Những đặc điểm tâm lí cơ bản của học sinh trung học phổ thông
1.1.1. Hoạt động học tập và sự phát triển nhận thức, trí tuệ
a. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông
So với học sinh trung học cơ sở, hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông có nhiều điểm khác. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Hứng thú học tập của học sinh trung học phổ thông sâu sắc hơn so các lứa tuổi trước, thậm chí trở thành niềm đam mê ở nhiều em. Mặt khác, hứng thú học tập của các em có sự phân hoá rất rõ. Một số học sinh quan tâm nhiều đến các môn khoa học tự nhiên, số khác lại hướng đến các môn khoa học xã hội v.v. Sự phân hoá hứng thú học tập của học sinh đến các môn học khác nhau chủ yếu liên quan tới việc lựa chọn các môn học mà các em sẽ phải thi vào đại học hoặc vào trường dạy nghề tương ứng.
Thứ hai: Thái độ học tập của học sinh trung học phổ thông có nhiều điểm đáng chú ý. Một mặt các em có tính tự giác cao hơn, tích cực hơn so với các lứa tuổi trước do các em ý thức được tầm quan trọng của việc học tập đối với nghề nghiệp trong tương lai, mặt khác thái độ học tập của các em đã có sự phân hoá cao. Việc học tập của các em có tính lựa chọn rõ ràng. Các em tập trung học nhiều hơn đối với các môn học liên quan tới nghề và trường định chọn để thi, hoặc các môn gây hứng thú đặc biệt. Do tập trung vào một số môn học, nên các môn khác ít được chú ý hơn.
Thứ ba: Động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông có tính hiện thực, gắn liền với nhu cầu và xu hướng nghề nghiệp. Các động cơ khác như động cơ xã hội (như học vì danh dự, vì lời khen) không còn chiếm ưu thế như đối với học sinh các lớp dưới.
Thứ tư: Có sự phân hoá rất rõ giữa các học sinh trung học phổ thông trong học tập. Ở lứa tuổi này xuất hiện nhiều nhóm học sinh, trong đó có hai nhóm cần được chú ý nhiều: nhóm học sinh có năng khiếu trong lĩnh vực nào đó (khoa học tự nhiên, công nghệ, nghệ thuật, thể thao v.v) được tuyển chọn và được học tập trong các trường lớp, chuyên từ nhỏ. Đây là những học sinh có năng lực tốt và có hứng thú cao với các môn học nhất định, có động cơ nhận thức tích cực và tự giác, say mê học tập. Vì vậy, các em thường đạt thành tích cao trong học tập. Ngược với nhóm trên, có không ít học sinh có kết quả học tập không tốt, ngại học. Nhiều em trong số này cho rằng trong điều kiện thi cử như hiện nay, việc học để vào đại học của mình là khó khăn. Do vậy các em học với thái độ đối phó. Thậm chí có hành vi tiêu cực như bỏ học, trốn học hoặc các hành vi chống đối khác.

Ngoài ra, có sự phân hoá nhu cầu và hứng thú học tập của học sinh nam và học sinh nữ. Tính chất và nội dung học tập ở cấp trung học phổ thông có tính hướng nghiệp cao, chi phối mục tiêu học tập, làm xuất hiện ở học sinh nhu cầu học theo định hướng nghề nghiệp; từ đó dẫn đến phân hoá nhu cầu, hứng thú học tập đối với các môn học giữa học sinh nam và nữ theo định hướng nghề nghiệp. Học sinh nam thường hướng đến các nghề đòi hỏi hỏi sự căng thẳng về trí tuệ, tư duy công nghệ cao, các môn khoa học tự nhiên và công nghệ; còn học sinh nữ hướng đến các môn khoa học xã hội, liên quan nhiều đến yếu tố tương tác người – người. Trên thực tế, nhiều học sinh nam, sau tốt nghiệp phổ thông thường vào các trường kĩ thuật như Bách khoa, Xây dựng, Công nghệ Thông tin v.. Trong khi đó các trường như Sư phạm, Khoa học xã hội và nhân văn, Báo chí v.v tỉ lệ sinh viên nữ thường cao hơn học sinh nam.
Sự phân hóa về nhu cầu, động cơ học tập cũng được thể hiện ở học sinh giữa vùng nông thôn và thành thị. Một số học sinh ở nông thôn hay những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn đã nhận thức được thực tế hạn chế của điều kiện sống nên có quyết tâm rất cao trong học tập và đạt được thành tích tốt. Theo tổng kết điểm thi đại học năm 2019 trong các tỉnh thành cả nước cho thấy, ngoại trừ khối D01 (Toán, Văn, Anh) có thủ khoa ở thành phố Hà Nội, các khối thi còn lại thủ khoa đều thuộc về học sinh ở nông thôn và các tỉnh như Thanh Hóa, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Tĩnh (trích báo Thanh Niên ngày 15/7/2019).
b. Sự phát triển nhận thức và trí tuệ của học sinh trung học phổ thông.
Phạm vi đối tượng nhận thức của đa số học sinh trung học phổ thông rất rộng, các em quan tâm tìm hiểu nhiều lĩnh vực, kể các các lĩnh vực bên ngoài nội dung học tập. Do vị thế xã hội, sự phát triển tâm lí, tác động của bối cảnh xã hội mới và những yêu cầu, tính chất của hoạt động học tập trong giai đoạn chuẩn bị lựa chọn nghề nghiệp tương lai nên tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong nhận thức thể hiện rõ nét và là phẩm chất tâm lí đặc trưng của học sinh trung học phổ thông. Các phẩm chất nhận thức này ở học sinh phụ thuộc rất nhiều vào nội dung và phương pháp dạy học của nhà trường.
Nội dung các môn học ở trường trung học phổ thông có tính lí luận cao hơn, khối lượng kiến thức nhiều hơn so với nội dung học tập ở trường trung học cơ sở. Học sinh trung học phổ thông phải lĩnh hội hệ thống khái niệm có tính trừu tượng, do đó việc học đòi hỏi sự nỗ lực, tính độc lập và sự phát triển cao của tư duy lí luận.
Năng lực nhận thức của học sinh trung học phổ thông cũng phát triển ở mức độ cao và đa dạng. Nhiều em đã bộc lộ tài năng thực sự về lĩnh vực nào đó, nhất là các em được học trong hệ thống trường, lớp năng khiếu. Tính chủ định ngày càng chiếm ưu thế trong các quá trình nhận thức cảm tính. Óc quan sát phát triển mạnh. Quá trình quan sát có mục đích rõ ràng và mang tính hệ thống. Trí nhớ logic – từ ngữ trừu tượng phát triển mạnh. Các em đã sử dụng khá phổ biến các phương pháp ghi nhớ có ý nghĩa. Việc học thuộc lòng theo kiểu máy móc ít được sử dụng. Năng

lực di chuyển và phân phối chú ý được phát triển và hoàn thiện một cách rõ rệt. Các em có thể vừa nghe giảng bài, vừa ghi chép và vừa có thể theo dõi nội dung suy nghĩ của mình. Nhiều em có khả năng ứng phó có hiệu quả những kích thích làm phân tán chú ý.
Sự phát triển trí tuệ của cá nhân được đặc trưng bởi hai yếu tố: các thao tác trí tuệ và vốn tri thức, khái niệm, kinh nghiệm cá nhân tiếp thu được. Ở lứa tuổi trung học phổ thông, các thao tác trí tuệ của cá nhân đạt đến độ trưởng thành, tức là các thao tác trí tuệ trừu tượng đã phát triển cao. Do phải làm việc với khối lượng lớn tri thức từ bài giảng của thầy cô giáo và tài liệu học tập nên ở các em khả năng phân tích, trừu tượng hoá, khái quát hoá và tổng hợp tài liệu lí luận phát triển nhanh. Khả năng độc lập và tính phê phán của tư duy cũng có sự cải thiện rõ. Các em có thể độc lập giải thích nguyên nhân, chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết và đưa ra các kết luận theo ý riêng của mình về một vấn đề khoa học cũng như trong cuộc sống. Mặt khác, thông qua các môn khoa học được học trong nhà trường, các em cũng đã tích luỹ được hệ thống khái niệm khoa học cơ bản về tự nhiên, xã hội và tư duy. Các khái niệm khoa học này đã trở thành công cụ đắc lực cho hoạt động trí tuệ của các em. Nhìn chung trí tuệ của học sinh trung học phổ thông đã đạt đến mức độ trưởng thành.
1.1.2. Kế hoạch đường đời, lí tưởng nghề và định hướng nghề của học sinh trung học phổ thông
a. Sự hình thành kế hoạch đường đời của học sinh trung học phổ thông
Vấn đề quan trọng nhất của học sinh trung học phổ thông là xây dựng kế hoạch đường đời, hình thành lí tưởng nghề và chọn nghề, chọn trường học nghề.
Kế hoạch đường đời là một khái niệm rộng bao hàm sự xác định các giá trị đạo đức, mức độ kì vọng vào tương lai, nghề nghiệp, phong cách sống v.v. Kế hoạch đường đời xuất hiện từ tuổi học sinh trung học cơ sở, tuy nhiên, ở tuổi này kế hoạch đường đời còn mơ hồ và chưa tách khỏi ước mơ. Học sinh trung học cơ sở chỉ đơn giản tưởng tượng mình trong các vai trò xã hội khác nhau và so sánh mức độ hấp dẫn của chúng, nhưng không quyết định dứt khoát vai trò nào cho bản thân và cũng chưa có hành động tích cực để đạt đến vai trò đó. Sang tuổi học sinh trung học phổ thông thì tính tất yếu của sự lựa chọn vai trò trở nên rõ rang hơn. Từ nhiều khả năng ở tuổi học sinh trung học cơ sở dần dần hình thành nên đường nét của một vài phương án hiện thực và có thể được chấp nhận. Đến cuối tuổi thanh niên học sinh, một vài phương án ban đầu sẽ trở thành lẽ sống, định hướng hành động của họ. Từ đó các em đã hình thành cho mình mục tiêu cụ thể, nội dung và các thực hiện từng bước đi đó. Điều cần lưu ý là với hầu hết học sinh trong thời kì vị thành niên, ít nhiều các em đều có kế hoạch đường đời của mình, có thể mơ hồ hoặc rõ nét. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải em nào cũng biết cách xây dựng kế hoạch đường đời một cách phù hợp, vì thế các em rất cần sự tư vấn, hỗ trợ từ phía gia đình và nhà trường trong quá trình phát triển của các em.

b. Lí tưởng nghề
Một trong những nhánh quan trọng của kế hoạch đường đời là lí tưởng nghề. Lí tưởng nghề của học sinh thường gắn với lí tưởng sống của các em. Trước đó trong thời kì tuổi thiếu niên, nhiều em cũng đã có và thể hiện khá rõ lí tưởng sống của mình. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, chúng thường chỉ là biểu tượng về các cá nhân cụ thể có ảnh hưởng lớn đến các em và được các em ngưỡng mộ như: thầy, cô giáo; ca sỹ, vận động viên thể thao, nhà văn, nhà khoa học v.v. Sang tuổi thanh niên “mẫu người lí tưởng” không còn gắn liền với các cá nhân cụ thể mà có tính khái quát cao về các phẩm chất tâm lí, nhân cách điển hình của nhiều cá nhân trong các lĩnh vực hoạt động, nghề nghiệp, được học sinh trung học phổ thông quý trọng và ngưỡng mộ, noi theo.
Lí tưởng nghề của học sinh trung học phổ thông có tính hai mặt: một mặt thể hiện “hình mẫu” một nghề nào đó mà học sinh khao khát vươn tới; mặt khác là sự lí tưởng hoá khả năng cũng như sự thành đạt của mình trong sự nghiệp đó. Cả hai mặt đều là động lực thúc đẩy các em trong học tập và tìm tòi nghề nghiệp. Điều này được thể hiện qua mục đích sống, qua sự say mê với việc học tập, nghiên cứu và lao động nghề nghiệp; qua nguyện vọng được tham gia các hoạt động mang lại giá trị xã hội lớn lao, được cống hiến sức trẻ của mình. Điều quan trọng trong việc hình thành lí tưởng nghề của học sinh trung học phổ thông là giải quyết hài hoà giữa lí tưởng hoá với hiện thực, tránh sự viển vông, ảo tưởng gây thất vọng cho các em sau này.
c. Định hướng nghề và chọn nghề, chọn trường học nghề
Một trong những động cơ chủ đạo trong học tập của học sinh trung học phổ thông là động cơ học vì nghề nghiệp tương lai, hướng đến những yêu cầu của nghề và của việc học nghề. Vì vậy, chọn nghề luôn là mối quan tâm thường trực của học sinh trong suốt thời kì học trung học phổ thông. Các em thường đặt ra cho mình những câu hỏi như: Học lên đại học hay học nghề? Vào học trường nào? Sẽ làm nghề gì? Sẽ trở thành người như thế nào về phương diện nghề nghiệp?…
Nhiều công trình nghiên cứu đã phát hiện, trong quá trình định hướng giá trị và chọn nghề sự biển đổi của học sinh trung học phổ thông và sinh viên thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ 13 hoặc 14 tuổi (cuối trung học cơ sở, đầu trung học phổ thông). Giai đoạn này ở học sinh xuất hiện những biểu tượng ban đầu về nghề nghiệp và giá trị của các nghề. Các em đã có sự đánh giá, so sánh những yêu cầu của các nghề với khả năng của mình đối với nghề đó. Đặc điểm chung của giai đoạn này là các em đã hướng đến một số nghề nhất định sẽ theo đuổi trong tương lai. Tuy nhiên, các em thường đánh giá cao bản thân mình và lí tưởng hoá lĩnh vực nghề nghiệp sẽ chọn. Định hướng ban đầu về nghề của trẻ em trong giai đoạn này chưa ổn định, thường xuyên thay đổi theo mức độ nhận thức của các em qua các năm học.

Giai đoạn 2: Bắt đầu từ 16-18 tuổi (cuối trung học phổ thông): giai đoạn cụ thể hoá. Trong giai đoạn này học sinh trung học phổ thông rất tích cực tìm hiểu đặc điểm các nghề trong xã hội, thường xuyên so sánh, cân nhắc các giá trị cũng như các yêu cầu của từng nghề và thường xuyên đối chiếu với khả năng và điều kiện của bản thân. Các em đã rất tích cực học tập các môn học liên quan trực tiếp tới việc tuyển chọn một vài nghề dự định sẽ theo đuổi. Đến năm cuối của trung học phổ thông hầu hết học sinh đã lựa chọn cho mình một vài nghề và trường học nghề tương ứng. Đồng thời cũng đã chuẩn kiến thức và tâm thế cho việc tuyển chọn và học nghề đã lựa chọn.
Giai đoạn 3: Bắt đầu từ 19 – 20 tuổi (tuổi sinh viên học nghề): giai đoạn thực hiện. Trong giai đoạn này sinh viên trực tiếp tham gia vào việc học nghề và trải nghiệm các công việc cụ thể của nghề. Đây là giai đoạn cá nhân tích luỹ kiến thức, hình thành kĩ năng và các yếu tố tâm lí phù hợp với các công việc của nghề trong tương lai. Mặc dù đang học nghề nhưng trong giai đoạn này tâm lí nghề của cá nhân thường không ổn định, hay dao động. Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiệp cho sinh viên là rất cần thiết để tạo ra sự ổn định tâm lí và tâm thế tích cực cho việc chuẩn bị bước vào guồng máy sản xuất của xã hội.
Có sự khác biệt tương đối rõ ràng về các phương diện cá nhân, giới và truyền thống văn hoá trong việc định hướng giá trị và chọn nghề của học sinh trung học phổ thông trước khi bước vào các trường học nghề. Mặc dù luôn trăn trở với nghề nghiệp trong tương lai nhưng sau khi kết thúc trung học phổ thông nhiều em vẫn chưa chọn cho mình nghề phù hợp với mình. Quá trình định hướng giá trị và chọn nghề của học sinh cuối trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông chịu sự tác động của nhiều yếu tố: sự phát triển, biến đổi cơ cấu nghề và quảng bá của mạng lưới nghề trong xã hội trên các phương tiện thông tin; mức độ tích cực của học sinh; yếu tố văn hoá cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp của xã hội. Trong suốt thời kì định hướng giá trị và chọn nghề của học sinh trung học phổ thông, việc hướng nghiệp của gia đình, nhà trường và xã hội cho các em có vai trò chủ đạo.
Chọn cho mình một nghề nghĩa là chọn cho mình một tương lai. Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn sai lầm một nghề nghĩa là đặt cho mình một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc.
Không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi: Làm thế nào chọn được một nghề phù hợp. Chính những nghĩ suy và trăn trở rằng tôi có phù hợp nghề này hay không, tôi có thực sự yêu thích nghề này hay không, nghề này có tương lai hay không,… là những vấn đề cần được giải quyết khi bắt đầu quá trình chọn một nghề phù hợp. Phân tích rõ bản họa đồ nghề nghiệp sẽ giúp bạn đưa ra những quyết định lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất.

Ảnh 2. Bản mô tả nghề (họa đồ nghề)
Thứ nhất: Cần phải vượt qua sự tác động của những tư tưởng và quan điểm chưa thực sự đúng đắn và hợp lý khi chọn nghề như:
– Chọn nghề theo sự áp đặt của người thân trong gia đình.
– Chọn nghề theo chuẩn của nhóm, của bạn bè và của người yêu.
– Chọn nghề may rủi.
– Chọn nghề chỉ ở bậc Đại học.
– Chọn nghề theo “mác”, theo “nhãn”.
– Chọn nghề nổi tiếng, dễ kiếm tiền.
– Chọn nghề “gấp, rút” mà không có sự kiên nhẫn, hy sinh.
– Chọn nghề không nghĩ đến những điều kiện có liên quan như: Điều kiện kinh tế cá nhân hoặc gia đình, thời gian học nghề, tuổi thọ của nghề, đầu ra của nghề,…
Thứ hai: Tìm hiểu nhiều nhất có thể có về những ngành nghề trong xã hội.
Trong mỗi ngành nghề, ít nhất là phải biết yêu cầu về nghề, triển vọng nghề nghiệp, mức lương, thị trường lao động,… Ngoài ra, phải tìm hiểu cả môi trường làm việc, những thách thức nghề nghiệp, những khó khăn và thuận lợi trong nghề nghiệp.
Điều này chỉ được thực hiện khi cá nhân tìm được hoặc tiếp cận được bản họa đồ nghề hoặc chí ít là những thông tin cần thiết về nghề qua một hướng dẫn nào đó:
– Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề.

– Nội dung và tính chất lao động của nghề.
– Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề.
– Những chống chỉ định y học.
– Những điều kiện đảm bảo cho người lao động khi làm nghề.
– Những nơi có thể học nghề.
– Những nơi có thể làm việc sau khi học nghề.
Bên cạnh đó, việc quan tâm và tìm hiểu thật kỹ về dấu hiệu cơ bản của nghề là điều quan trọng. Nhất thiết, muốn chọn nghề phù hợp thì mỗi cá nhân phải tìm hiểu về đối tượng lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động.
Thứ ba: Tìm hiểu về chính bản thân mình để hướng đến việc tìm nghề phù
hợp.
Phải trả lời thật chính xác những câu hỏi cơ bản nhất về chính mình cũng như
những vấn đề tâm lý có liên quan: Tôi là ai, tôi cần gì và muốn gì, hạnh phúc với tôi là gì,… Tất cả những câu hỏi này được thực hiện một cách nghiêm túc nhằm bước đầu định hướng cho việc tìm hiểu bản thân và để xác lập định hướng cuộc sống của chính mình.
Chính cá nhân phải xác lập cho mình một suy nghĩ thật sự nghiêm túc: Nghề mình yêu thích và những nghề có thể chấp nhận khi không có điều kiện lựa chọn cho bản thân. Tôi đam mê gì? là câu hỏi đầu tiên bạn phải hiểu rõ và trả lời chính xác nhất. Chỉ khi được làm những gì mình thật sự yêu thích, bạn mới có thể sống hết mình với công việc dù gặp khó khăn, thử thách hay áp lực. Do đó, thay vì lựa chọn nghề nghiệp theo mong muốn, ý nguyện của phụ huynh hoặc chạy theo vẻ bề ngoài của các công việc thời thượng, hãy đi theo con đường rộng mở của việc hiện thực hóa những ước mơ.
Thế mạnh của bản thân ở đâu? Có niềm đam mê và ước mơ để theo đuổi sẽ là một khởi đầu thuận lợi. Nếu đam mê của bạn còn khá mờ nhạt hoặc được trải rộng cho nhiều lĩnh vực, hãy tự hỏi bản thân “Tính cách và sở trường của tôi thật sự phù hợp với điều gì”. Sau đó, lựa chọn những gì nằm trong khả năng sẽ giúp bạn cảm thấy thật sự tự tin và thoải mái.
Nếu bạn không có đam mê hay sở trường cụ thể, hãy thử tìm đến những bài khảo sát đáng tin cậy về tính cách và năng lực bản thân để có cái nhìn rõ hơn về chính mình. Một trong những bài trắc nghiệm khá nổi tiếng trên thế giới hiện nay là trắc nghiệm tính cách MBTI, trắc nghiệm nghề nghiệp Holland,… giúp bạn định hình thiên hướng công việc phù hợp sau này.
Tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp? Đừng chỉ học từ kiến thức trong sách vở mà hãy để bản thân được trực tiếp trải nghiệm thực tế qua các cơ hội có được. Quá trình đó sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về tính chất cụ thể của công việc và nhận ra liệu

bản thân có thật sự phù hợp hay không. Có thể chính những mối quan hệ với trải nghiệm xung quanh sẽ dẫn lối cho bạn đến nhiều cơ hội nghề nghiệp tốt sau này.
Cuối cùng hãy xác định mục tiêu nghề nghiệp của bản thân? Bạn đã lựa chọn được nghề nghiệp của mình. Bây giờ bạn hãy xác định mục tiêu cụ thể bạn muốn đạt tới trong nghề nghiệp và bắt đầu một kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Hiểu một cách đơn giản nhất, mục tiêu nghề nghiệp chính là một vị trí công việc, một đích đến mà bạn mong muốn trong tương lai và lộ trình bạn vạch ra để thực hiện nó. Đặt mục tiêu nghề nghiệp sẽ giúp bạn có động lực, khuôn khổ để đạt được mơ ước. Nói cách khác, vai trò của mục tiêu nghề nghiệp là một đỉnh núi bạn cần vượt qua và thúc đẩy bạn không ngừng tiến về phía thành công. Có mục tiêu nghĩa là bạn sẽ ưu tiên cho các hành động quan trọng, không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ, kỹ năng, cảm thấy hài lòng với công việc hơn và thành công hơn.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Một số giải pháp giáo dục phẩm chất trách nhiệm đối với học sinh khối 6 ở trường THCS Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
6
Chủ nhiệm
4.5/5

4
Chủ nhiệm
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)