SKKN Giải pháp rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh tại trường thpt
- Mã tài liệu: MT0071 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 309 |
Lượt tải: | 10 |
Số trang: | 36 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Quỳ Hợp 2 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 36 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Quỳ Hợp 2 |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Giải pháp rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh tại trường thpt“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Nhóm giải pháp ứng phó với căng thẳng và kiếm chế cảm xúc bằng tự chủ tâm lí
– Nhóm giải pháp ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc bằng tự chủ hành động
– Nhóm giải pháp ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc bằng các can thiệp từ bên ngoài
Mô tả sản phẩm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn biện pháp
Yêu cầu của giáo dục trong những năm gần đây là phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh một cách toàn diện. Đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, hướng đến hình thành nhân cách và năng lực của một công dân toàn cầu trong thời đại mới. Một trong những kĩ năng cần có đó chính là kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh.
Xã hội ngày càng phát triển, con người càng có nhiều vấn đề cần giải quyết và nhiều nhu cầu cần thỏa mãn. Những vấn đề và nhu cầu ấy tác động vào tâm lí của con người tạo ra nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Nhất là đối với thanh thiếu niên, trong lúc tâm lí lứa tuổi chưa thật sự vững vàng, trước những tác động của xã hội, của hoàn cảnh, sẽ dễ dàng bị chi phối, dẫn đến có nhiều hành động thiếu suy nghĩ, gây hậu quả nghiêm trọng cho bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin phát triển, sự phụ thuộc vào công nghệ dẫn đến sự giao tiếp và các hoạt động bên ngoài bị giảm đi đáng kể, trẻ không chỉ chịu ảnh hưởng nền giáo dục của gia đình, nhà trường nữa mà còn chịu ảnh hưởng từ mạng xã hội… Sự quan tâm, quản lí của hai thành phần quan trọng này ngày càng lỏng lẻo hơn đối với trẻ. Không hiếm cảnh những đứa trẻ tự mình loay hoay trong bế tắc của bản thân rồi tìm đến với cái chết hoặc sống buông thả, sa đọa. Và hiện nay, đại dịch Covit – 19 đang diễn ra phức tạp trên toàn thế giới và Việt Nam, những đòi hỏi của định hướng nghề nghiệp, của áp lực thi cử, của chất lượng giáo dục đang cùng lúc đến với các em. Những điều ấy khiến các em lâm vào khủng hoảng, cảm thấy bối rối, đôi khi không kiềm chế được bản thân, phản ứng lại một cách thái quá. Trước tình hình đó chúng tôi nhận thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh ngay từ trên ghế nhà trường là cần thiết. Vì vậy chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: Giải pháp rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh tại trường THPT .
2. Đối tượng và phạm vi thực hiện
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu cách rèn luyện kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc cho học sinh, từ đó xây dựng một môi trường an toàn, thân thiện và hạnh phúc trong lớp học, trong nhà trường nhằm phát triển năng lực và phẩm chất các em trong thời đại mới.
Trong đề tài này, chúng tôi không có tham vọng đưa ra nhiều giải pháp để thay đổi một cách triệt để mà chỉ là những định hướng cơ bản để tạo ra một kĩ năng tốt trong cuộc sống. Đó là một số nhóm giải pháp cụ thể như: Nhóm giải pháp bằng tự chủ tâm lí, nhóm giải pháp bằng tự hành độjng, nhóm giải pháp bằng cách can thiệp từ bên ngoài…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu Giải pháp rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh tại trường THPT Quỳ Hợp 2.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp quan sát
– Phương pháp khảo sát: thăm dò ý kiến của học sinh.
– Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và phụ lục, đề tài được trình bày ở các phần chính là:
– Cơ sở của đề tài
– Một số giải pháp
– Thiết kế giáo án sinh hoạt về chủ đề nghiên cứu; các mẫu biên bản trao đổi với học sinh ngoài giờ học. – Hiệu quả của đề tài
6. Dự báo xu hướng đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ lí luận về công tác chủ nhiệm trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, đặc biệt là kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc.
Đề tài góp phần cụ thể hóa việc đổi mới giáo dục, tạo ra mối quan hệ lành mạnh, tích cực của học sinh với học sinh, của học sinh với các thành viên khác trong và ngoài nhà trường. Góp thêm giải pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp trong thời kì mới, con người mới.
NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học
1. Cơ sở lí luận
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
a. Căng thẳng và các biểu hiện của căng thẳng
Căng thẳng thường được mô tả là một tình trạng tiêu cực hay tích cực có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của người đó.
Theo tâm lý học giải thích thì đây là một cảm giác căng thẳng và dồn ép. Áp lực với cường độ thấp có thể là một điều tốt và thậm chí có lợi ích trong công việc và sức khỏe. Căng thẳng có thể từ bên ngoài và liên quan đến môi trường sống, nhưng cũng có thể được tạo ra từ sự nhìn nhận sinh bản thân dẫn đến lo âu hay các cảm xúc tiêu cực khác như dồn ép, không thoải mái quanh một tình huống mà sau đó họ sẽ cho là sự kiện áp lực.
Theo sinh lý học và sinh học, căng thẳng là một phản ứng của cơ thể sống đối với stressor (nghĩa là “căng thẳng nguyên”) như là điều kiện môi trường hay một kích thích tố (stimulus). Căng thẳng là một phương thức mà cơ thể đáp ứng với các thách thức. Sau một sự kiện áp lực, cách cơ thể đáp ứng với căng thẳng là thông qua sự kích hoạt hệ thần kinh giao cảm dẫn đến đáp ứng căng thẳng cấp hay còn gọi là phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy.
Biểu hiện của căng thẳng có thể thấy được ở tất cả các khía cạnh của cuộc sống của con người, bao gồm cả cảm xúc, hành vi, khả năng suy nghĩ và sức khỏe thể chất. Nhưng, bởi vì mọi người xử lý căng thẳng khác nhau, các triệu chứng căng thẳng có thể khác nhau. Có thể có các triệu chứng như sau:
– Về cảm xúc: Khó chịu, chán nản, thờ ơ, lo âu, căng thẳng, bất an, đánh mất giá trị của bản thân. Trở nên dễ bị kích động, thất vọng và ủ rũ, dễ mất kiểm soát hoặc cần kiểm soát lại cảm xúc. Có khi đó là cảm giác gặp khó khăn trong việc thư giãn và làm dịu tâm trí của bạn; có khi thì cảm thấy tồi tệ về bản thân (lòng tự trọng thấp), cô đơn, vô giá trị và chán nản. Thậm chí còn có biểu hiện tránh người khác.
– Về hành vi và nhận thức: Tính khí nóng nảy, hay nổi cáu, bi quan, bồn chồn, mất tập trung, hay quên, hay lo lắng, vụng về, ăn uống giảm, ngủ không ngon, mất ngủ, năng lượng thấp…
– Trên cơ thể sẽ xảy ra hiện tượng rối loạn tiêu hóa, khó thở, đau tức ngực, tim đập nhanh, khô miệng, đau bụng, đổ mồ hôi, căng hoặc đau cơ, nhức đầu, cảm lạnh và nhiễm trùng thường xuyên…
b. Các loại căng thẳng và tác hại
Căng thẳng có hai loại là căng thẳng cấp tính và căng thẳng mãn tính.
Căng thẳng cấp tính chính là căng thẳng ngắn hạn và là cách phổ biến nhất mà căng thẳng xảy ra. Căng thẳng cấp tính thường được gây ra bởi suy nghĩ về áp lực của các sự kiện đã xảy ra gần đây, hoặc nhu cầu sắp tới trong tương lai gần.
Căng thẳng cấp tính không nghiêm trọng như căng thẳng mãn tính nhưng nó cũng gây ra các tác động ngắn hạn bao gồm đau đầu do căng thẳng. Tuy nhiên, các trường hợp căng thẳng cấp tính lặp đi lặp lại trong một thời gian dài có thể trở thành mãn tính và có hại. Căng thẳng cấp tính có thể dẫn đến huyết áp cao và bệnh tim mạch.
Căng thẳng mãn tính là căng thẳng kéo dài trong một khoảng thời gian dài hơn. Bất kỳ loại căng thẳng nào diễn ra trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng là căng thẳng mãn tính. Căng thẳng mãn tính làm cho người bệnh không nhận ra, như là thói quen sẵn có. Nếu không tìm cách kiểm soát căng thẳng, nó có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe. Những người bị căng thẳng mãn tính có khả năng bị suy sụp cuối cùng có thể dẫn đến tự tử, hành động bạo lực, đau tim và đột quỵ.
Tình trạng căng thẳng kéo dài dẫn đến rối loạn chuyển hóa lipid, làm tăng cholesterol trong máu. Căng thẳng dẫn tới tăng tiết catecholamin mà chủ yếu là adrenalin, gây co mạch máu dẫn tới thiếu oxy ở tim và thành mạch, thiếu oxy và các tổ chức. Tăng catecholamin trong những điều kiện nhất định gây tình trạng thiếu oxy tổ chức, loạn dưỡng và hoại tử cơ tim, thành mạch.
Căng thẳng là một phần bình thường của cuộc sống có thể giúp chúng ta học hỏi và phát triển hoặc có thể gây ra cho chúng ta những vấn đề quan trọng. Nó giải phóng các chất hóa học thần kinh và hormone mạnh mẽ chuẩn bị cho chúng ta hành động (để chiến đấu hoặc chạy trốn).
c. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng.
1. 1. 2. Kĩ năng kiềm chế cảm xúc
a. Cảm xúc và các biểu hiện cụ thể của cảm xúc
Định nghĩa của Từ điển Oxford về cảm xúc là “Một cảm giác mạnh mẽ xuất phát từ hoàn cảnh, tâm trạng hoặc mối quan hệ với người khác”. Cảm xúc là sự phản ứng với các sự kiện quan trọng bên trong và bên ngoài.
Cảm xúc có thể là sự xuất hiện (ví dụ: hoảng loạn) hoặc tâm thế (ví dụ: thù địch) và có thời gian tồn tại ngắn (ví dụ: tức giận) hoặc có thời gian tồn tại dài (ví dụ: đau buồn). Nhà trị liệu tâm lý Michael C. Graham mô tả tất cả các cảm xúc như tồn tại trên một cường độ liên tục. Vì vậy, nỗi sợ hãi có thể bao gồm từ lo lắng nhẹ đến mức khủng bố hoặc xấu hổ có thể từ ngượng ngập đơn giản đến xấu hổ mang tính độc hại. Cảm xúc đã được mô tả là bao gồm một tập hợp các phản ứng phối hợp, có thể bao gồm các cơ chế thông qua lời nói, sinh lý, hành vi và thần kinh.
Cảm xúc đã được phân loại, với một số mối quan hệ tồn tại giữa cảm xúc và một số đối lập trực tiếp hiện có. Graham phân biệt cảm xúc là chức năng hoặc rối loạn chức năng và lập luận tất cả các cảm xúc chức năng đều có lợi ích.
Trong một số cách sử dụng của từ này, cảm xúc là những phản ứng mãnh liệt được hướng vào ai đó hoặc một cái gì đó. Mặt khác, cảm xúc có thể được sử dụng để chỉ các trạng thái nhẹ (như khó chịu hoặc nội dung) và các trạng thái không hướng vào bất cứ điều gì (như trong lo lắng và trầm cảm). Một dòng nghiên cứu xem xét ý nghĩa của từ cảm xúc trong ngôn ngữ hàng ngày và thấy rằng cách sử dụng này khá khác so với trong diễn ngôn học thuật.
Trong thực tế, Joseph LeDoux đã định nghĩa cảm xúc là kết quả của một quá trình nhận thức và ý thức xảy ra để đáp ứng với phản ứng của hệ thống cơ thể đối với một kích hoạt nào đó.
Theo Mô hình quá trình thành phần (CPM) của Scherer về cảm xúc, có năm yếu tố quan trọng của cảm xúc. Từ quan điểm quá trình thành phần, kinh nghiệm cảm xúc đòi hỏi tất cả các quá trình này trở nên phối hợp và đồng bộ hóa trong một khoảng thời gian ngắn, được thúc đẩy bởi các quy trình thẩm định. Mặc dù việc đưa vào đánh giá nhận thức là một trong những yếu tố gây tranh cãi, vì một số nhà lý thuyết đưa ra giả định rằng cảm xúc và nhận thức là riêng biệt nhưng là hệ thống tương tác, CPM cung cấp một chuỗi các sự kiện mô tả hiệu quả sự phối hợp có liên quan trong giai đoạn cảm xúc.
– Đánh giá nhận thức: cung cấp một đánh giá về các sự kiện và đối tượng.
– Triệu chứng cơ thể: thành phần sinh lý học của trải nghiệm cảm xúc. – Xu hướng hành động: một thành phần tạo động lực cho việc chuẩn bị và định hướng phản ứng của động cơ.
– Biểu hiện: biểu hiện trên khuôn mặt và giọng nói hầu như luôn đi kèm với trạng thái cảm xúc để truyền đạt phản ứng và ý định hành động.
– Cảm giác: trải nghiệm chủ quan của trạng thái cảm xúc một khi nó đã xảy ra.
Theo cuốn sách “Khám phá tâm lý học” của Don Hockenbury và Sandra E. Hockenbury, cảm xúc là một trạng thái tâm lý phức tạp bao gồm ba thành phần riêng biệt: trải nghiệm chủ quan, phản ứng sinh lý và phản ứng hành vi hoặc biểu cảm.
Năm 1972, nhà tâm lý học Paul Eckman cho rằng có sáu cảm xúc cơ bản phổ biến: sợ hãi, ghê tởm, giận dữ, bất ngờ, hạnh phúc và buồn bã. Năm 1999, ông đã mở rộng thêm danh sách này, bao gồm bối rối, phấn khích, khinh miệt, xấu hổ, tự hào, hài lòng và vui chơi.
Chúng ta cũng đã biết rằng, cảm xúc có thể tích cực hoặc tiêu cực. Cụ thể như sau:
Những cảm xúc tích cực như niềm vui, tình yêu và kết quả bất ngờ từ phản ứng của chúng ta đối với các sự kiện mong muốn. Tại nơi làm việc, những cảm xúc này có được đạt được mục tiêu hoặc nhận được lời khen ngợi từ cấp trên. Các cá nhân trải qua một cảm xúc tích cực có thể cảm thấy yên bình, hài lòng và bình tĩnh. Kết quả là, nó có thể khiến bạn cảm thấy thỏa mãn và hài lòng. Cảm xúc tích cực đã được chứng minh là loại bỏ một người lạc quan, và trạng thái cảm xúc tích cực có thể làm cho những thách thức khó khăn cảm thấy có thể đạt được hơn
Những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, sợ hãi và buồn bã có thể xuất phát từ những sự kiện không mong muốn. Tại nơi làm việc, những sự kiện này có thể bao gồm việc không nghe ý kiến của bạn, thiếu kiểm soát đối với môi trường hàng ngày của bạn và tương tác khó chịu với đồng nghiệp, khách hàng và cấp trên. Cảm xúc tiêu cực đóng một vai trò trong quá trình xung đột, với những người có thể kiểm soát cảm xúc tiêu cực của họ thấy mình có ít xung đột hơn so với những người không.
b. Kĩ năng kiềm chế cảm xúc
Kỹ năng kiềm chế cảm xúc là học cách kiềm chế để làm chủ hành vi, thái độ của bản thân trong mọi tình huống dù rất tiêu cực. Hiểu một cách đơn giản, kiểm soát cảm xúc là đưa cảm xúc trở về trạng thái cân bằng thông qua nhiều phương diện như ngôn ngữ, hình thể…
Cảm xúc đơn giản là phản ứng, rung động tự nhiên của con người trước ngoại cảnh. Bất kì ai cũng có cảm xúc vui, buồn khác nhau hay còn gọi là cảm xúc tích cực và cảm xúc tiêu cực. Cảm xúc có thể điều khiển hành vi của con người. Vì vậy, cần phải biết cách điều chỉnh cảm xúc của mình ở mức thích hợp để tạo ra điều tích cực trong cuộc sống.
1.1.3. Tầm quan trọng của kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc trong cuộc sống
Trong thực tế, căng thẳng mang lại khá nhiều lợi ích cho cuộc sống của chúng ta, nó là nguồn động lực lớn giúp bạn có thể cố gắng và nỗ lực hơn mỗi ngày. Tuy nhiên, không phải sự căng thẳng nào cũng sở hữu những mặt lợi, mặt tốt. Có những căng thẳng gây ra tác hại lớn đến cá nhân và cộng đồng.
Cảm xúc cũng tương tự như thế. Có những cảm xúc xuất hiện trước nhận thức (tức là trước những suy nghĩ). Cảm xúc ảnh hưởng và kích hoạt các phản ứng hành vi ngay lập tức trong vài giây. Cảm xúc hỗ trợ việc ra quyết định, phục vụ như một nguồn động lực để lựa chọn và có hành động phù hợp. Nếu không kiểm soát tốt cảm xúc của mình, bạn sẽ dễ thất bại trong các buổi giao tiếp, đàm phán hoặc các cảm xúc tiêu cực sẽ là tác nhân khiến các mối quan hệ của bạn bị hủy hoại. Ngược lại, nếu bạn kiểm soát được, bạn sẽ tìm được định hướng mới, có những lời nói, hành động khéo léo và dễ thành công hơn trong cuộc sống và công việc.
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh THPT
Theo cách xác định phổ biến và được thừa nhận trong tâm lí học, tuổi thanh niên được xác định từ 15 đến 25 tuổi, với hai thời kì: 15 – 19 và 19 – 25. Độ tuổi từ 15 – 19 đã có những thay đổi khá cơ bản về tâm, sinh lí. Điều đó làm cho học sinh THPT thường có những nét riêng so với trước đó và so với người lớn. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của học sinh THPT gồm: a. Đặc điểm về sự phát triển thể chất
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng sự phát triển của các em còn kém so với người lớn. Các em có thể làm những công việc nặng của người lớn. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…).
Nhìn chung ở tuổi này các em có sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các em.
b. Đặc điểm về điều kiện sống và hoạt động xã hội
– Trong gia đình, các em đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm như người lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em về một số vấn đề quan trọng trong gia đình. Các em cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. Các em bắt đầu quan tâm chú ý đến nề nếp, lối sống sinh hoạt và điều kiện kinh tế chính trị của gia đình. Có thể nói rằng cuộc sống của các em trong độ tuổi này là vừa học tập vừa lao động.
– Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhưng tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với tuổi thiếu niên. Đòi hỏi các em tự giác, tích cực độc lập hơn, phải biết cách vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhà trường lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập không chỉ nhằm trang bị tri thức và hoàn chỉnh tri thức mà còn có tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho các em. Việc gia nhập Đoàn TNCS HCM trong nhà trường đòi hỏi các em phải tích cực độc lập, sáng tạo, phải có tính nguyên tắc, có tinh thần trách nhiệm, biết phê bình và tự phê bình.
– Xã hội đã giao cho lứa tuổi học sinh THPT quyền công dân, quyền tham gia mọi hoạt động bình đẳng như người lớn. Tất cả các em đã có suy nghĩ về việc chọn nghề. Khi tham gia vào hoạt động xã hội các em được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, quan hệ xã hội được mở rộng, các em có dịp hòa nhập và cuộc sống đa dạng phức tạp của xã hội giúp các em tích lũy vốn kinh nghiệm sống để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau này.
Tóm lại: Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có hình dáng người lớn, có những nét của người lớn nhưng chưa phải là người lớn, còn phụ thuộc vào người lớn. Thái độ đối xử của người lớn với các em thường thể hiện tính chất hai mặt đó là: Một mặt người lớn luôn nhắc nhở rằng các em đã lớn và đòi hỏi các em phải có tính độc lập, phải có ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý. Nhưng mặt khác lại đòi hỏi các em phải thích ứng với những đòi hỏi của người lớn…
c. Đặc điểm về hoạt động học tập
Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học, các em phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư duy khái quát phát triển đủ cao. Những khó khăn trở ngại mà các em gặp thường gắn với sự thiếu kĩ năng học tập trong những điều kiện mới chứ không phải với sự không muốn học như nhiều người nghĩ. Hứng thú học tập của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên hứng thú mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn.
Thái độ của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt. Học sinh đã lớn, kinh nghiệm của các em đã được khái quát, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời tự lập. Thái độ có ý thức đối với việc học tập của các em được tăng lên mạnh mẽ. Học tập mang ý nghĩa sống còn trực tiếp vì các em đã ý thức rõ ràng được rằng: cái vốn những tri thức, kĩ năng và kĩ xảo hiện có, kĩ năng độc lập tiếp thu tri thức được hình thành trong nhà trường phổ thông là điều kiện cần thiết để tham gia có hiệu quả vào cuộc sống lao động của xã hội. Điều này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan điểm tương lai của mình. Các em bắt đầu có thái độ lựa chọn đối với từng môn học. Rất hiếm xảy ra trường hợp có thái độ như nhau với các môn học.
Mặt khác, ở lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của các em đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn. Các em thường bắt đầu có hứng thú ổn định đặc trưng đối với một khoa học, một lĩnh vực tri thức hay một hoạt động nào đó. Điều này đã kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các tri thúc trong các lĩnh vực tương ứng. Đó là những khả năng rất thuận lợi cho sự phát triển năng lực của các em.
d. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.
Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở các em. Tuy nhiên, sự quan sát ở các em thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một đối tượng vẫn còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận vội vàng không có cơ sở thực tế.
Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học bài các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng, những ý trọng tâm, lập dàn ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em cũng hiểu được rất rõ trường hợp nào phải học thuộc trong từng câu, từng chữ, trường hợp nào càn diễn đạt bằng ngôn từ của mình và cái gì chỉ cần hiểu thôi, không cần ghi nhớ. Nhưng ở một số em còn ghi nhớ đại khái chung chung, cũng có những em có thái độ coi thường việc ghi nhớ máy móc và đánh giá thấp việc ôn lại bài.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát, thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu… Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí vì thế các em rất thích nghe và thích ghi chép những câu triết lý.
đ. Đặc điểm về sự phát triển nhận thức của học sinh THPT
– Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình…
– Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động…
– Ở lứ tuổi này các em đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em. Càng cuối cấp học thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em biết gắn những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp.
e. Đặc điểm về nhu cầu giao tiếp
– Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị. – Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và các em cũng cảm thấy mình cần cho tập thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực – có những người được nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm cho các em phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân. – Tình bạn đối với các em ở tuổi này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết, chân thành sẽ cho phép các em đối chiếu được những thể nghiêm, ước mơ, lí tưởng, cho phép các em học được cách nhận xét, đánh giá về mình. Nhưng tình bạn ở các em còn mang màu sắc xúc cảm nhiều nên thường có biểu hiện lí tưởng hóa tình bạn. Có nghĩa là các em thường đòi hỏi ở bạn mình phải có những cái mình muốn chứ không chú ý đến khả năng thực tế của bạn. – Ở tuổi này cũng đã xuất hiện một loại tình cảm đặc biệt – tình yêu nam nữ. Tình yêu của lứa tuổi này còn được gọi là “tình yêu bạn bè”, bởi vì các em thường che giấu tình cảm của mình trong tình bạn nên đôi khi cũng không phân biệt được đó là tình bạn hay tình yêu. Tình yêu của nam nữ thanh niên tạo ra nhiều cảm xúc: căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối, vì vui sướng khi được đáp lại bằng sự yêu thương.
1. 3. Vai trò của giáo viên trong công tác tư vấn tâm lí và rèn kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc của học sinh THPT
1.3.1. Nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình dạy học tại nhà trường phổ thông
Nhiệm vụ 1: Làm cho học sinh nắm vững hệ thống những tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại. phù hợp với thực tiễn nước ta về tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
Yêu cầu dành cho học sinh phổ thông là chỉ cần nắm vững tri thức cơ bản được lựa chọn từ vốn tri thức vô cùng to lớn của loài người. Đây là những tri thức tối thiểu, cần thiết cho tất cả mọi người. Nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những tri thức hiện đại, nghĩa là những tri thức mới và phù hợp với chân lý khách quan.
Đồng thời tri thức phổ thông cơ bản đó phải phù hợp với thực tiễn đất nước ta, với trình độ nhận thức của học sinh để giúp họ giải quyết những vấn đề đất nước đặt ra, và qua đó, giúp họ tìm được việc làm phù hợp sau này. Trên cơ sở những tri thức đã nắm vững, cần rèn luyện để hình thành cho họ những kỹ năng, kỹ xảo nhất định, bao gồm kỹ năng, kỹ xảo chung và kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt của từng môn học.
Nhiệm vụ 2: Phát triển trong học sinh năng lực hoạt động trí tuệ và hoạt động thực hành, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
Năng lực hoạt động trí tuệ được đặc trưng bởi hai mặt sau: Năng lực vận dụng các thao tác trí tuệ và sự tích luỹ các tri thức cơ bản, thiết yếu nhất. Trong quá trình nắm tri thức diễn ra sự thống nhất giữa một bên là những tri thức với tư cách là cái được phản ánh và một bên là thao tác trí tuệ với tư cách là phương thức phản ánh. Những tri thức nắm được là nhờ các thao tác trí tuệ, và ngược lại, các thao tác trí tuệ được hình thành và phát triển trong quá trình nắm tri thức. Vì vậy, phát triển năng lực trí tuệ được đặc trưng bởi sự tích luỹ vốn tri thức cơ bản và thiết yếu nhất, sự thành thạo và độ vững chắc của những thao tác trí tuệ.
Về năng lực thực hành cần hình thành cho học sinh thể hiện ở chỗ học sinh phát hiện được vấn đề và biết vận dụng tri thức giải quyết tốt những nhiệm vụ của từng môn học, những vấn đề do thực tiễn đề ra. Đặc biệt phải hình thành cho họ phương pháp tự học để có thể tiếp tục học suốt đời, để có thể sẵn sàng thích ứng; đồng thời phải chú ý hình thành cho người học phương pháp tự đánh giá để họ luôn biết nhìn nhận đúng đắn trình độ hiện có của bản thân, từ đó có khát vọng và quyết tâm vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức.
Nhiệm vụ 3: Trên cơ sở trang bị tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và thực hành mà hình thành cho học sinh cơ sở thế giới quan khoa học, lý tưởng và những phẩm chất đạo đức của con người mới.
Nhiệm vụ thứ ba vừa là kết quả, vừa là mục đích của hai nhiệm vụ trên. Nó là yếu tố kích thích và chỉ đạo việc nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực nhận thức.
1.3.2. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh THPT
a. Giáo viên Chủ nhiệm thay mặt hiệu trưởng quản lí toàn diện mọi mặt
của một lớp học
Giáo viên Chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí mọi hoạt động của lớp học và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở trong lớp. Vai trò quản lí của giáo viên Chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hoạt động giáo dục, thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh. Đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp, giáo viên Chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
b. Giáo viên Chủ nhiệm là người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết, là người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp và là cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể.
Vai trò tổ chức của giáo viên Chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm.
Giáo viên Chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi đoàn lập kế hoạch công tác, bầu ra ban chấp hành chi đoàn tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất
c. Giáo viên Chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực
lượng giáo dục
Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giáo dục đạo đức cho học sinh. Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên Chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách hiệu quả nhất.
Với những vai trò trên, chủ nhiệm là người gần gũi học sinh nhất trong nhà trường, hiểu rõ tâm tư tình cảm của từng em, nắm vững hoàn cảnh gia đình và mong muốn của từng học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm là người có thể nhận thấy được những thay đổi về tâm trạng, cảm xúc và hành động của các em sớm nhất. Cũng là người có thể gợi cho các em bộc bạch tâm sự của mình nhiều nhất. Do vậy giáo viên chủ nhiệm là người có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cũng có khả năng tác động vào tâm lí học sinh, giúp các em giải tỏa những cảm xúc căng thẳng đang gặp phải, từ đó đưa các em ra khỏi những trạng thái tiêu cực ảnh hưởng đến việc học tập.
1.3.3. Vai trò của giáo viên bộ môn trong việc rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh THPT
Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ dạy học của mình, giáo viên bộ môn cũng phải kết hợp dạy cho học sinh một số kĩ năng sống cần thiết được tích hợp trong bài học. Những kĩ năng ấy được hình thành dần dần qua việc tích lũy kiến thức và kĩ năng trong các giờ học bộ môn. Một trong số các kĩ năng cần có ấy là kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc cho học sinh.
Giáo viên bộ môn cũng có thời gian tiếp xúc, làm việc với học sinh khá nhiều, cũng là người được các em tin tưởng và có thể chia sẻ tâm tư tình cảm. Giáo viên bộ môn đồng thời cũng là người đánh thức và phát triển ước mơ, khát vọng ở học sinh mình dạy hàng ngày. Giáo viên bộ môn là người đồng hành với các em thực hiện ước mơ ấy trong suốt thời gian học tập tại nhà trường. Do vậy giáo viên bộ môn cũng có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng ứng phó với căng thẳng và kiểm soát cảm xúc của học sinh THPT như giáo viên chủ nhiệm.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Yêu cầu về năng lực và phẩm chất của con người trong xã hội hiện nay
Yêu cầu của giáo dục nói riêng và xã hội nói chung về con người hiện nay khá toàn diện. Bên cạnh đó tuổi trẻ thế kỉ 21 sống có cá tính, theo đuổi những giá trị khác biệt nhưng không “dị biệt” và lan tỏa những suy nghĩ tích cực, mong muốn đóng góp, cống hiến cho xã hội. UNESCO đưa ra 12 giá trị sống cho con người trong thời kì hiện nay. Đó là những giá trị thuộc về tư tưởng, lối sống, chuẩn mực đạo đức được cộng đồng thừa nhận, bảo tồn và gìn giữ. Từ đó giúp cho cá nhân điều chỉnh hành vi của mình, vì hạnh phúc cá nhân, vì ổn định và phát triển cộng đồng xã hội. Bao gồm: Hòa bình, tôn trọng, yêu thương, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, hợp tác, hạnh phúc, trách nhiệm, giản dị, tự do.
Bên cạnh đó, giáo dục hiện nay tập trung vào sự phát triển về những năng lực và phẩm chất cơ bản của con người.
Năng lực này được chia ra thành 2 nhóm năng lực chính là năng lực chung và năng lực đặc thù;
Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi, làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Các năng lực này được hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền của con người, quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc sống; đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Nhưng năng lực chung sẽ được nhà trường và giáo viên giúp các em học sinh phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông là: Tự chủ và tự học, kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm với các thành viên khác, giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để.
Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Các phẩm chất của học sinh trong chương trình giáo dục tổng thể gồm: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
Với những yêu cầu trên, học sinh cũng phải tự học tập, tự rèn luyện để phát triển các kĩ năng sống cần thiết để phù hợp với nhu cầu của xã hội, của cộng đồng và bản thân. Trong đó có kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc.
2.2. Yêu cầu của việc giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường
Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá liên hiệp quốc (UNESCO): “Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI: Học để biết – Học để làm – Học để chung sống – Học để làm người. Theo đó kỹ năng sống được định nghĩa là những năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người khác, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo Quĩ cứu trợ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF): “Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng”.
Kỹ năng sống được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm khả năng năng lực tâm lý xã hội mà còn cả những kỹ năng vận động, kỹ năng sống được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội.
Từ các khái niệm nêu trên có thể đưa ra khái niệm kỹ năng sống như sau: “Là năng lực cá nhân mà con người có được thông qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực tiếp, nó giúp cho con người có cách ứng xử tích cực và có hiệu quả, đáp ứng mọi biến đổi của đời sống xã hội, sống khoẻ mạnh, an toàn hơn”.
Kỹ năng sống giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho mỗi con người nói chung và cho các em học sinh nói riêng, vì khoa học giáo dục ngày nay đã khẳng định mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển trong một xã hội công nghiệp, hiện đại thì phải học, học không chỉ để có kiến thức mà còn để tự khẳng định (Learn to Be), học để cùng chung sống (Learn to Live together), học để biết (Learn to Know), học để hành (Learn to Do).
Xã hội hiện đại có sự thay đổi toàn diện về nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Hoặc có những vấn đề đã xuất hiện trước đây, nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và đầy thách thức trong xã hội hiện đại, nên con người dễ hành động theo cảm tính và không tránh khỏi rủi ro, nguy cơ, thách thức trong cuộc sống. Khi đó, kỹ năng sống chính là hành trang giúp con người chuyển những điều đã biết đến để thay đổi hành vi, nhờ đó mà đạt được lối sống lành mạnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống, kỹ năng sống là một phần quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại.
Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người. Các cá nhân thiếu kỹ năng sống là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có kỹ năng sống sẽ thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và do vậy giảm bớt tệ nạn xã hội làm cho xã hội lành mạnh.
Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với thanh thiếu niên giúp họ có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin đồng thời là một phương sách để hoàn thiện bản thân mình trước mọi người. Đồng thời, kỹ năng sống cũng giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Những người có kỹ năng sống là những người biết làm cho mình và những người khác được hạnh phúc. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của họ.
2.3. Thực trạng học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc tại trường THPT Quỳ Hợp 2
Qua việc thực hiện bằng phiếu khảo sát ở một số lớp học tại trường THPT Quỳ Hợp 2, chúng tôi nhận thấy:
Tình trạng học sinh thiếu kĩ năng ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc tại trường THPT Quỳ Hợp 2 tương đối phổ biến. Tuy không có những biểu hiện lớn xảy ra nhưng vẫn xuất hiện một số biểu hiện như sau:
– Vui buồn thất thường, không có nguyên nhân cụ thể chiếm 60, 78%
– Hay nổi nóng với bạn bè trong lớp: 36,05%
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]