SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Giá:
50.000 đ
Môn: Tiếng Việt
Lớp: 5
Bộ sách:
Lượt xem: 1446
Lượt tải: 7
Số trang: 25
Tác giả: Lê Thị Bảo Ngọc
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phạm Văn Bạch
Năm viết: 2022-2023
Số trang: 25
Tác giả: Lê Thị Bảo Ngọc
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phạm Văn Bạch
Năm viết: 2022-2023

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” triển khai các biện pháp như sau: 

2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Giúp học sinh nắm vững khái niệm cơ bản về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.2. Biện pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh nắm dấu hiệu để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.3. Biện pháp 3. Xây dựng phương pháp dạy về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.4. Biện pháp 4 : Xây dựng, bổ sung hệ thống bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.5. Biện pháp 5 : Tổ chức các hoạt động ngoại khóa giúp học sinh dễ hiểu và nhớ nội dung kiến thức, kĩ năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Mô tả sản phẩm

  1. MỞ ĐẦU

 

1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

     Hiện nay, giáo dục tiểu học đã và đang thực hiện đổi mới toàn diện, đồng bộ nội dung, chương trình giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học. Mục tiêu của bậc Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học Trung học cơ sở. Để thực hiện được mục tiêu này thì vai trò của người giáo viên đặc biệt quan trọng. Dạy học sinh làm người và trang bị tri thức cho học sinh là hai công việc song song. Chính vì thế đòi hỏi mỗi giáo viên phải có phương pháp giáo dục phù hợp thông qua việc giảng dạy tất cả các môn học trong nhà trường để đặt nền móng vững chắc cho việc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì vậy việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở Tiểu học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học phân môn “Luyện từ và câu” ở lớp 5 nói riêng là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay đó là: “Dạy – học dựa vào các hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh”. Phân môn “Luyện từ và câu” trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học về Tiếng Việt, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học sinh tự hoàn thiện nhân cách của mình ở phương diện ngôn ngữ và văn hóa. Học sinh cần học tốt môn học này để có cơ sở học tốt những môn học khác, học sinh cần phải được học rất thiết thực nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp của mình. Phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy việc tổ chức dạy học phải được xây dựng thành hệ thống việc làm cho học sinh để các em tự chiếm lĩnh kiến thức và hình thành phát triển được các kĩ năng cần thiết. Xây dựng được một hệ thống bài tập tốt và tổ chức thực hiện chúng một cách hiệu quả có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học phân môn luyện từ và câu.

 Chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, phân môn Luyện từ và câu phần nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn một cách khoa học và có hệ thống. Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là mảng kiến thức quan trong của phân môn Luyện từ và câu. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không khó khăn, tuy nhiên giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì học sinh thường nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là khó đối với học sinh. Mặt khác, khi dạy về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm hầu như giáo viên ít có sách tham khảo, chưa có nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề này. Trăn trở về vấn đề trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa”. 

 

1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích: 

– Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh.

– Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tách được ý nghĩa từ vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ.

– Giúp học sinh có năng lực sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong khi nói hoặc viết, để từ đó các em sử dụng được vốn từ làm công cụ giao tiếp tư duy.

 

1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Một số kinh nghiệm giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

 

1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

– Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết

– Phương pháp kiểm tra, khảo sát thực tế

– Phương pháp thu thập thông tin

– Phương pháp thống kê

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

 

  1. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

 

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

      Nhiệm vụ của môn Tiếng Việt là cung cấp cho học sinh những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn từ), đồng thời hình thành cho học sinh kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy. Môn Tiếng Việt còn trang bị cho học sinh một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học. Tiếng Việt là công cụ để học các môn học khác. Các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện, là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Chính vì thế, giáo viên phải có những phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn, mặt khác phải có kiến thức Tiếng Việt dạy học phù hợp và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ.

    Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ được tập trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh không được như mong đợi của cô giáo kể cả một số học sinh học tốt đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Vì từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều được hình thành từ quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ – dùng ít kí hiệu nhưng biểu đạt được nhiều. Tuy nhiên chúng là hai lớp từ khác nhau. Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên, do chuyển nghĩa quá xa mà thành, do từ vay mượn trùng với từ sẵn có, do từ rút gọn trùng với từ sẵn có, … Từ nhiều nghĩa là một từ nhưng có nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa hình thành do cơ chế chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ hoặc hoán dụ. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa có liên quan với nhau. Nhưng cũng có khi cùng một hình thức ngữ âm vừa có thể có hiện tượng đồng âm, vừa có thể có hiện tượng nhiều nghĩa. Trăn trở về vấn đề này, qua những năm dạy lớp 5 tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau đây tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ ấy qua bài viết: “Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” nhằm giúp học sinh tháo gỡ những lầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 

2.2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY – HỌC VỀ TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA TRƯỚC KHI ÁP DỤNG  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

2.2.1. Thực trạng chương trình Luyện từ và câu của lớp 5

* Thời lượng chương trình: 

    Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5 chương trình Tiếng Việt lớp 5,. Các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu trong đó có các từ đồng âm. Bài luyện tập về từ đồng âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng trong chương trình dành cho kiến thức này còn ít. Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học khái niệm về từ nhiều nghĩa., Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nếu các nét nghĩa khác nhau của một từ. 

* Dạng bài tập của sách giáo khoa: 

     Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa rất ít. Duy nhất có 1 bài tập (bài 1 trang 82 – TV5 – tập 1) có dạng phân biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực hành giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn quá ít.

2.2.2.Thực trạng việc dạy của giáo viên

      Kinh nghiệm thực tế giảng dạy, qua dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy: 

     Bản thân giáo viên Tiểu học phải dạy nhiều môn học không chuyên sâu về một bộ môn nên kiến thức cũng chưa nắm sâu nhất là kiến thức phần nghĩa của từ trong Tiếng Việt ở lớp 5. Việc giáo viên giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thường gặp nhiều khó khăn, bởi phần kiến thức đưa vào trong chương trình chỉ ở mức độ đơn giản. Phần nghĩa của từ mới dùng ở khái niệm, thông qua các bài tập thực hành giúp học sinh hiểu và khắc sâu kiến thức. Chương trình chưa chỉ ra những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Do vậy đôi khi giáo viên cũng cảm thấy lúng túng, nhầm lẫn trong các trường học phức tạp.

      Bên cạnh những khó khăn về chuyên môn của giáo viên thì thời gian để trao đổi chuyên môn còn ít bởi trong một buổi sinh hoạt chuyên môn còn nhiều vấn đề cần thảo luận thống nhất.Chính vì vậy vấn đề đầu tư chuyên sâu kĩ càng cho kiến thức từ đồng âm , từ nhiều nghĩa chưa có sự đầu tư thích đáng nên hiệu quả giờ dạy chưa cao. 

2.2.3. Thực trạng việc học của học sinh. 

*Phần kiến thức từ nhiều nghĩa đối với các em còn khó, còn trừu tượng:  

       Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang còn dạy tách bạch từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em làm bài trong vở bài tập tương đối đạt yêu cầu. 

* Vốn từ và vốn hiểu biết của các em còn hạn chế: 

    Khi học phần từ nhiều nghĩa, việc xác định nghĩa chuyển đối với các em là rất khó bởi vốn hiểu biết về nghĩa của từ có giới hạn. Các nét nghĩa chuyển, mối quan hệ giữa nghĩa chuyển và nghĩa gốc, các em khó phân biệt tìm ra nét chung. Dạng bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, học sinh còn lung túng. 

 

2.3. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA.

2.3.1. Biện pháp thứ nhất:  Giúp học sinh nắm vững khái niệm cơ bản về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

    Nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, trước hết giáo viên yêu cầu học sinh hiểu và thuộc ghi nhớ (khái niệm) của bài học. Chính vì thế, tôi thường cho học sinh nắm khái niệm bằng những hình thức, cách làm như sau:

Bước 1: Hướng dẫn phân tích ngữ liệu phần nhận xét để tiếp cận với khái niệm.

Khi học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm, giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Ở bước làm này, tất cả các đối tượng học sinh đều thực hiện xâm nhập yêu cầu ngữ liệu qua các phương pháp dạy học: Hỏi đáp, thảo luận nhóm, nêu vấn đề, quan sát…

 

Bước 2:  Hướng dẫn học sinh tự tổng hợp và nắm nội dung khái niệm .

Ở bước này, giáo viên có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và năm chắc phần ghi nhớ. Tâm lí học sinh làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. 

Bước 3:  Củng cố việc nắm khái niệm ở phần luyện tập

Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn học nói chung. 

Ví dụ: Dạy khái niệm từ đồng âm tiết 10- tuần 5 

Bước 1: HDHS phân tích ngữ liệu phần nhận xét để tiếp cận khái niệm từ đồng âm.

  Bài 1,2: Viết các câu lên bảng: 

  Ông ngồi câu cá.

  Đoạn văn này có năm câu.

– GV yêu cầu học sinh thảo luận nhóm:

+ Em có nhận xét gì về hai câu văn trên?

+ Nghĩa của từ câu trong từng câu trên là gì ?

+ Hãy nêu nhận xét của em về nghĩa và cách phát âm các từ câu trên.

– Từ những phần câu hỏi trên,học sinh sẽ nắm được:

C©u (1): c©u c¸ : b¾t c¸ t«m b»ng mãc s¾t nhá (th­êng cã måi) buéc ë mét ®Çu sîi d©y. 

C©u (2): c©u v¨n : ®¬n vÞ cña lêi nãi …

– Giáoviên kết luận về câu trả lời bài tập phần nhận xét.

Bước 2:  Hướng dẫn học sinh tự tổng hợp và nắm nội dung khái niệm từ đồng âm.

 GV khẳng định từ câu trong 2 câu trên là từ đồng âm. Vậy từ đồng âm là từ như thế nào ? 

– Câu hỏi này thường chú trọng‎ đến đối tượng học sinh hoàn thành tốt trả lời được.

– Sau khi học sinh kết luận tự rút ra được khái niệm, giáo viên cho học sinh học thuộc luôn khái niệm (ghi nhớ): Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (theo SGK TV5 – tập 1 – trang 51) 

– Cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ để các em dễ hiểu và dễ nhớ.(2 ý:  giống âm nhưng khác nghĩa)

Bước 3:  Củng cố việc nắm khái niệm từ đồng âm ở phần luyện tập

Phần bài tập thực hành luyện tập: Xác định nghĩa của từng cặp từ : Hòn đá và đá bóng

– Phần này, tôi cho học sinh mức hoàn thành sử dụng từ điển Tiếng Việt để nắm nghĩa từ. Sau khi các em giải thích xong, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh họa nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ: đá trong hòn đá là chất rắn cấu tạo nên vỏ trái đất, kết thành từng tảng, từng hòn; đá trong đá bóng là đưa nhanh chân và hất mạnh bóng cho xa ra hoặc đưa bong vào khung thành đối phương.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán lớp 5.
5
Toán học
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)