SKKN Một số biện pháp giáo dục thẩm mỹ để hình thành văn hóa ứng xử cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT
- Mã tài liệu: MT0064 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 309 |
Lượt tải: | 10 |
Số trang: | 62 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Đặng Thai Mai |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 62 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Hằng |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Đặng Thai Mai |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp giáo dục thẩm mỹ để hình thành văn hóa ứng xử cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Xây dựng mô hình lớp học hạnh phúc để hình thành một số quy tắc ứng xử cần có của học sinh
– Đổi mới tiết sinh hoạt chủ nhiệm thông qua các chủ đề GDTM giúp hình thành văn hóa ứng xử cho học sinh
– Tạo sân chơi lành mạnh bằng việc hình thành các CLB nghệ thuật
– Phối hợp với gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội để khuyến khích học sinh phát huy lan tỏa
Mô tả sản phẩm
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Với mục tiêu “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, giáo dục thẩm mỹ luôn được được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề… Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt l i và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng H Chí Minh”. Quán triệt tinh thần đó, ộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông an hành k m theo Thông tư số 32/2018/TT- GDĐT ngày 26/12/2018 của ộ trưởng ộ Giáo dục và Đào tạo với mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; đ ng thời, hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi bao g m những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo và những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất. Do lứa tuổi học sinh phổ thông là tuổi bột phát của tình cảm, tuổi nhạy cảm, có ấn tượng lâu bền, tưởng tượng phong phú mà có thể tiếp thu ngay với nghệ thuật, nhiều nhà giáo dục cho rằng, giáo dục thẩm mỹ ở thanh niên thì nghệ thuật là phương tiện hiệu quả hơn cả. Trong nhiều thử nghiệm sư phạm người ta nhận ra rằng b i dưỡng nghệ thuật cho học sinh trong nhà trường không những chỉ thực hiện được mục đích giáo dục và giáo dưỡng mà còn thực hiện những mục đích tổ chức sư phạm.
Hội nhập cùng với sự bùng nổ của truyền thông số và công nghệ, phim ảnh, âm nhạc, thời trang nước ngoài du nhập vào Việt Nam mang theo sự mới mẻ, hiện đại của phương Tây làm cho đời sống tinh thần của giới trẻ thêm phong phú. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm tại trường THPT, tôi nhận thấy rằng sự “đổ bộ” ạt khiến cho một bộ phận không nhỏ học sinh mơ h về thị hiếu thẩm mỹ, có biểu hiện lệch lạc thậm chí phản cảm. Đứng trước những loại văn hóa phẩm độc hại, phản động, nhiều học sinh đã không chọn lọc mà tiếp thu một cách thụ động thậm chí còn tung hô ca ngợi. Một số học sinh chạy theo lối sống hưởng thụ, lai căng, xem thường, sao nhãng những giá trị văn hóa của dân tộc, có quan niệm không đúng về cái đẹp. Chính những sai lệch trong nhận thức đã khiến cho việc ứng xử của nhiều học sinh ngày càng thiếu văn hóa. Số lượng các
vụ học sinh đánh nhau trong và ngoài cổng trường ngày càng tăng lên; hình ảnh học sinh đến trường với trang phục không nghiêm túc, nhuộm tóc, trang điểm không còn xa lạ; và đáng bu n hơn nữa là thái độ thiếu tôn trọng cha mẹ, thầy cô.
Hiểu được mức ảnh hưởng của văn hóa ứng xử đến tương lai của học sinh và tầm quan trọng của giáo dục thẩm mỹ đối với việc hình thành văn hóa ứng xử, trong vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi luôn trăn trở, tìm tòi để có được nhưng biện pháp phù hợp, mới mẻ và hiệu quả để truyền tải đến cho học sinh. Trên tinh thần mong muốn góp phần xây dựng “Trường học hạnh phúc” theo chủ trương của
ộ giáo dục và đào tạo đã phát động, tôi lựa chọn và áp dụng sáng kiến:“Một số biện pháp giáo dục thẩm mỹ để hình thành văn hóa ứng xử cho học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT”. Tuy đã có nhiều đề tài đề cập đến vấn đề giáo dục thẫm mỹ tuy nhiên nội dung còn chung chung thông qua các môn học, chưa đề cập đến các hoạt động giáo dục cho học sinh THPT. Tôi hy vọng đề tài này sẽ đóng góp một số thay đổi trong phương pháp giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm ở trường THPT.
II. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích văn hóa ứng xử của học sinh; đánh giá thực trạng giáo dục thẩm mỹ ở các trường THPT trên địa bàn; từ đó đề xuất một số biện pháp giáo dục thẩm mỹ cho HS lớp chủ nhiệm ở trường THPT.
III. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu lí luận.
– Phương pháp khảo sát thực tiễn.
– Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp.
– Phương pháp so sánh đối chiếu.
IV. Cấu trúc của đề tài Phần một: Đặt vấn đề Phần hai: Nội dung Phần ba: Kết luận
NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học
1. Cơ sở lí luận
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Văn hóa – Văn hóa ứng xử – Văn hóa ứng xử học đường
a, Văn hóa
Tại Hội nghị của UNESCO tại Mêhicô từ 26/7 đến ngày 06/8/1982 với sự tham gia của gần 500 nhà nghiên cứu, văn hoá đã được định nghĩa: “Văn hoá là một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc hoạ nên bản sắc của một gia đình, cộng đồng, làng xóm, vùng miền, quốc gia, dân tộc….Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả những lối sống những quyền cơ bản của con người, những hệ giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng, những di sản văn hoá hữu thể và những di sản văn hoá vô hình”. Từ điển tiếng Việt viết: “văn hoá là tổng thể nói chung tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
b, Văn hóa ứng xử
Văn hóa ứng xử là tập hợp những nét đẹp thể hiện qua các thái độ, hành động phân xử, thế ứng xử, đối ứng với một thái độ, hành vi khác thể hiện triết lý sống, các lối sống, lối suy nghĩ, lối hành động của một cá nhân, một cộng đ ng người trong việc trong việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội từ nhỏ đến lớn.
c, Văn hóa ứng xử học đường
Thuật ngữ Văn hóa học đường xuất hiện trong những năm 1990 trong một số nước nói tiếng Anh như Anh, Mỹ, Úc…và dần dần trở nên phổ biến trên thế giới với ý nghĩa tổng quát: Văn hóa học đường là những giá trị, những kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người đã tích lũy trong quá trình xây dựng hệ thống giáo dục và quá trình hình thành nhân cách.
Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “Văn hóa học đường là hệ các chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô giáo, các vị phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp”.
Theo Nguyễn Dục Quang và Nguyễn Thị Ngọc Hà (2018):” Văn hóa ứng xử học đường được hiểu là các chuẩn mực mang tính đạo đức, thẩm mỹ chi phối hành vi ứng xử của con người trong môi trường học đường được thể hiện qua thái độ, lời nói, cử chỉ, hành động… trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. VHƯXHĐ được cụ thể hóa qua các biểu hiện ứng xử với đo vật, cảnh quan trong nhà trường; qua sự tương tác người – người: Lãnh đạo nhà trường – Giáo viên (GV)/ Cán bộ trường học, GV – GV, GV – Học sinh (HS), GV – Cha mẹ HS và các lực lượng giáo dục khác, HS – HS”.
Chủ thể của ứng xử học đường được đề cập trong sáng kiến này chủ yếu tập trung vào hai chủ thể chính bao gom lực lượng giáo dục nhà trường và HS.
1.1.2. Giáo dục thẩm mỹ
Thẩm mỹ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của tự nhiên, xã hội và con người mà chúng ta đang đề cập tới. Cái đẹp là cái trung tâm, bên cạnh cái đẹp là cái tốt, cái cao thượng, cái anh hùng. Những khái niệm tương phản là cái xấu, cái thấp hèn, cái hài, cái bi.
Theo Mac-Lênin : “Lí tưởng thẩm mỹ là tổng thể phương hướng cơ bản của đời sống được đúc kết lại thành hình ảnh mẫu mực, cảm quan của sự hoàn thiện hoàn mỹ của con người và xã hội, là cuộc sống trên đà phát triển, là khát vọng và hành động nhằm hoàn thiện vô tận cuộc sống (endless) bằng cách giải quyết những nhu cầu, mâu thuẫn thực tại để giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho mọi người trên cơ sở chủ nghĩa nhân văn hiện đại. Lí tưởng thẩm mỹ bộc lộ rõ rệt và tập trung nhất trong lãnh vực nghệ thuật bằng cái đẹp và cái trác tuyệt”.
Dựa trên lí tưởng thẩm mỹ mà Mac-Lênin đưa ra, tôi sử dụng các khái niệm giáo dục thẩm mỹ như sau:
Giáo dục thẩm mỹ, về bản chất là boi dưỡng lòng khát khao đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hòa giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng cao năng lực cảm thụ, đánh giá và sáng tạo ở học sinh, làm cho đời sống của của các em được phát triển một cách hài hòa trong mọi hoạt động học tập cũng như lao động; trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.
Như vậy, GDTM là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến học sinh, nhằm giúp HS biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân. GDTM là một khái niệm rộng, bao gom việc giáo dục cho học sinh thái độ thẩm mỹ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho học sinh có được sự hiểu biết đúng đắn thế nào là đẹp, xấu đến sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu, đong thời có hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của nhà giáo dục.
1.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mỹ cho HS THPT
1.2.1. Nội dung GDTM cho HS THPT
“Cái đẹp cứu rỗi thế giới” – câu nói nhân văn bất hủ của đại văn hào Nga F.
M. Dostoevsky vừa hàm ý tôn vinh giá trị của con người, tôn vinh vị thế của cái đẹp, đong thời khẳng định bản chất con người là luôn hướng về cái đẹp, luôn mong ước được thụ hưởng và sáng tạo cái đẹp… Thế nên, nói đến GDTM là nói đến GD về cái đẹp, phạm trù cái đẹp, cái cao cả, GD về giá trị của cuộc sống. Chương trình GDPT quy định nội dung GD nhằm hình thành và phát triển NLTM được thực hiện qua các môn học thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật Âm nhạc và Mỹ thuật , môn Ngữ văn và hoạt động trải nghiệm, hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp.
Có thể nói, NLTM của học sinh bao gom năng lực âm nhạc, năng lực mỹ thuật, năng lực văn học. Mỗi năng lực được thể hiện qua các hoạt động: Nhận thức các yếu tố thẩm mỹ; Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ.
Trước hết, GD nghệ thuật với trọng tâm là khơi dậy và phát triển năng lực nghệ thuật, thông qua quan sát và nhận thức thẩm mỹ, sáng tạo và ứng dụng thẩm mỹ, phân tích và đánh giá thẩm mỹ; GD học sinh ý thức tôn trọng, kế thừa giá trị văn hoá, nghệ thuật dân tộc, tiếp cận giá trị thẩm mỹ thời đại, phát huy tinh thần sáng tạo phù hợp với sự phát triển xã hội.
Thứ hai là GD ngôn ngữ và văn học, GD học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; Phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha… Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, các tác phẩm văn học có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt l i để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Chính vì vậy, thông qua từng cấp học, thông qua việc r n luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, học sinh hình thành và phát triển năng lực văn học – một biểu hiện của năng lực thẩm mỹ; Đong thời hình thành tư tưởng cao đẹp, tình cảm nhân văn để học sinh phát triển toàn diện về tâm hon và nhân cách.
Thứ ba, bên cạnh các môn học trên, NLTM cũng được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động GD khác, chẳng hạn như hoạt động trải nghiệm và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. Một số chuyên đề học tập, trải nghiệm phát triển các kĩ năng thực hành, mở rộng hiểu biết về nghệ thuật trong mối tương quan với các yếu tố văn hoá, lịch sử và xã hội, ứng dụng kiến thức vào đời sống, đáp ứng sở thích cá nhân và tiếp cận với những nghề nghiệp liên quan đến nghệ thuật.
1.2.2. Phương pháp GDTM cho HS THPT
Theo định hướng chung, các môn học và hoạt động GD áp dụng các phương pháp tích cực hoá hoạt động của học sinh – trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức
hướng dẫn hoạt động; Tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập; Tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân; R n luyện thói quen và khả năng tự học; Phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích luỹ được để phát triển, để trở thành những công dân phát triển toàn diện về nhân cách, hài hoà về thể chất và tinh thần.
Các hoạt động học tập được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường thông qua học Lí thuyết; Thực hiện bài tập; Trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu; Tham gia hội thảo, tham quan, cắm trại, đọc sách; Sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ cộng đong… và tuỳ theo mục tiêu, tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp nhưng phải bảo đảm, mỗi học sinh được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.
Theo đó, phương pháp GD để hình thành và phát triển NLTM chính là dựa trên đặc trưng các môn học và hoạt động GD, hướng dẫn học sinh có hứng thú và tự tin trong quá trình nhận thức, phân tích, đánh giá và có nhu cầu tái hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ, hình thành hệ giá trị năng lực và phẩm chất nhân văn.
1.3. GVCN với công tác GDTM để hình thành văn hóa ứng xử cho HS
1.3.1. Vai trò của GVCN lớp
GVCN là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. GVCN lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hon của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. GVCN lớp có vai trò sau đây:
Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học: GVCN lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học. Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đong sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết: GVCN lớp là linh hon của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng. Học sinh kính yêu
GVCN như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn b như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng GVCN bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ.
Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp: Vai trò tổ chức của GVCN thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đong thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm. Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, GVCN lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ. Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp.
Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp: GVCN lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy GVCN phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất. Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của GVCN lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp.
Với nhiều vai trò quan trọng như vậy, khi mang trên mình trọng trách là người GVCN chúng ta phải xác định những khó khăn, vất vả; luôn luôn học hỏi, không ngừng đổi mới bản thân để tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp với học sinh lớp mình. Chúng ta phải dùng sự nhiệt huyết, tình yêu thương để thắp sáng đam mê trong mỗi học trò.
1.3.2. Vai trò của GVCN trong việc GDTM để hình thành văn hóa ứng xử cho HS
Từ những vai trò chung của GVCN, chúng ta cụ thể vai trò của GVCN trong việc GDTM để hình thành văn hóa ứng xử cho HS như sau:
+ Boi dưỡng cho HS năng lực tri giác, cảm thụ, thưởng thức cái đẹptrong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
+ oi dưỡng cho HS năng lực đánh giá cái đẹp trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật, từ đó nhận biết “Chân, Thiện, Mỹ” trong đời sống con người.
+ oi dưỡng cho HS tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ làm sao cho phù hợp với các giá trị văn hóa dân tộc và văn minh thời đại.
+ Boi dưỡng cho HS năng lực sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày, trog lao động, học tập và sinh hoạt tập thể: cái đẹp vật chất, cái đẹp tinh thần, cái đẹp nghệ thuật.
+ Làm cho mỗi học sinh luôn hướng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp, quan trọng nhất là tu dưỡng đạo đức tạo cái đẹp trong phẩm giá nhân cách.
+ Là cầu nối giữa gia đình và nhà trường trong việc GDTM cho HS để hình thành văn hóa ứng xử trong gia đình, trong xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng về văn hóa ứng xử của học sinh THPT
Để có kết luận xác đáng, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu thực trạng về văn hóa ứng xử của học sinh ở một số trường THPT thông qua GVCN. Cụ thể, tôi đã sử dụng trang web https://www.mentimeter.com/ để tạo câu hỏi khảo sát và gửi đường link đến một số GV làm công tác chủ nhiệm ở các trường THPT trong tỉnh để thu thập các lỗi mà học sinh thường xuyên vi phạm.
Kết quả thu được như sau: Có 35 giáo viên của 35 trường THPT tham gia khảo sát, những lỗi vi phạm được nhiều giáo viên liệt kê sẽ có font chữ lớn hơn.
Kết quả trên cho chúng ta thấy một thực trạng đáng buon trong văn hóa ứng xử của học sinh. Trọng trách ngày càng nặng nề đang đặt trên vai chúng ta, những người làm giáo dục và đặc biệt hơn nữa là GVCN. Đối mặt với thái độ thờ ơ, vô cảm, sự thiếu ý thức vươn lên trong học tập, sự bất ổn trong tâm lí sẽ khiến cho giáo viên chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp trong người. Tuy nhiên điều đó buộc chúng ta phải không ngừng đổi mới tư duy, thay đổi phương pháp giáo dục để đảm bảo dạy chữ đi đôi với dạy người.
2.2. Thực trạng GDTM cho học sinh THPT
Tôi tiến hành khảo sát học sinh và giáo viên để nhận được kết quả từ hai chiều, tăng tính xác thực cho đề tài.
* Với học sinh tôi sử dụng mẫu phiếu sau:
Sau khi soạn thảo mẫu phiếu từ Google Form tôi gửi đến các em HS ở các trường THPT trong tỉnh, có 190 HS tham gia khảo sát và thu được kết quả sau:
* Với giáo viên tôi sử dụng mẫu phiếu sau:
Cũng thông qua thống kê của Google Form với 35 GV ở 35 trường THPT trong tỉnh tham gia khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]