SKKN Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4
- Mã tài liệu: BM4188 Copy
Môn: | Toán |
Lớp: | 4 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 490 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Đặng Thị Quỳnh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Thái Bình |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Đặng Thị Quỳnh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Thái Bình |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2. 3.1. Phân loại đối tượng học sinh.
2.3.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện.
2.3.3. Thường xuyên cải tiến nội dung và các hình thức tổ chức dạy học trong mỗi tiết học.
2.3.4. “Ứng dụng công nghệ thông tin” thiết kế giáo án điện tử để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2.3.5. Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa.
2.3.6. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong lớp học.
2.3.7. Phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán.
2.3.8. Thành lập: ” Đôi bạn cùng tiến”.
2.3.9. Định hướng cho học sinh tự học theo phong cách: Học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung.
2.3.10. Kết hợp: Gia đình – Nhà trường – Xã hội.
2. 3.11. Có kế hoạch kèm cặp và biện pháp hỗ trợ cụ thể .
Mô tả sản phẩm
- Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong đó bậc Tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách, tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt môn Toán có một vị trí rất quan trọng nhằm góp phần trang bị những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Chính vì vậy việc hình thành kiến thức cơ bản cho học sinh ở bậc Tiểu học là điều rất cần thiết.
Chất lượng giáo dục hiện nay ngày một được nâng lên, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Song trong thực tế, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng bên cạnh phần lớn học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh tiếp thu bài chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách, điều kiện học tập và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán là hiện tượng đã và đang tồn tại trong các nhà trường. Việc dạy các em học sinh chưa hoàn thành ở môn Toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Đây là vấn đề hiện nay luôn được các nhà trường và xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Vấn đề nêu trên rất khó khăn với không ít giáo viên bởi hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Mặt khác, việc rèn học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục Tiểu học ở địa phương. Vậy là một giáo viên chủ nhiệm thì phải làm gì đối với những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán này? Đó chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học.
Trong những năm gần đây, tôi luôn được phân công giảng dạy lớp 4. Đó là điều kiện tốt giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí của các em và đề ra các biện pháp để rèn những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán có thể nắm được bài và hoà nhập vào các hoạt động trên lớp cùng các bạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công tác tại trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, những khó khăn mà tôi gặp phải luôn được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và tập thể đồng nghiệp chia sẻ. Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó đã góp phần tạo nên nhiều kinh nghiệm hữu ích được áp dụng thành công. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của nhà trường tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4 ” ở lớp 4B trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
– Nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4, từ đó giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán nắm bắt, tiếp thu bài nhanh, nắm vững kiến thức đã học, đáp ứng yêu cầu chương trình của lớp học.
– Đề xuất một số biện pháp giúp giáo viên lớp 4 nói riêng và giáo viên Tiểu học nói chung nắm được một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
– Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4.
– Học sinh lớp 4 còn hạn chế năng lực về học môn Toán.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
– Nghiên cứu các tài liệu về nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Toán lớp 4.
– Nghiên cứu phương pháp, hình thức tổ chức giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4.
– Phương pháp điều tra, thực nghiệm.
- Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận.
Theo yêu cầu về nội dung giáo dục Tiểu học đó là: Phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật. Đối với dạy học Toán lớp 4 nhằm giúp HS:
*Về số và phép tính:
– Số tự nhiên:
+ Nhận biết một số đặc điểm chủ yếu của dãy số tự nhiên.
+ Biết đọc, viết, so sánh, sắp thứ tự các số tự nhiên.
+ Biết cộng, trừ các số tự nhiên; nhân số tự nhiên với số tự nhiên có ba chữ số; chia số tự nhiên có đến sáu chữ số cho số tự nhiên có đến ba chữ số.
+ Biết tìm một thành phần chưa biết của phép tính khi biết kết quả tính và thành phần kia.
+ Biết tính giá trị của biểu thức số có đến ba dấu phép tính (có hoặc không có dấu ngoặc) và biểu thức có chứa một, hai, ba chữ số dạng đơn giản.
+ Biết vận dụng tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng và phép nhân, tính chất nhân một tổng với một số để tính bằng cách thuận tiện nhất.
+ Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính, nhân với 10, 100, 1000,…Chia cho 10, 100, 1000,…Nhân số có hai chữ số với 11.
+ Nhận biết dấu hiệu chia hết cho 2, 3, 5, 9,…
– Phân số:
+ Bước đầu nhận biết về phân số (qua hình ảnh trực quan).
+ Biết đọc, viết phân số; tính chất cơ bản của phân số; biết rút gọn, quy đồng mẫu số các phân số; so sánh hai phân số.
+ Biết cộng, trừ, nhân, chia hai phân số dạng đơn giản.
* Về đo lường:
– Biết mối quan hệ giữa yến, tạ, tấn với kg; giữa giây, phút, giờ; giữa ngày và giờ; năm và thế kỉ; giữa dm2 và cm2; giữa dm2 và m2; giữa km2 và m2.
.- Biết chuyển đổi các đơn vị đo đại lượng thông dụng trong một số trường hợp cụ thể khi thực hành vận dụng.
* Về các yếu tố hình học:
– Nhận biết góc nhọn, góc tù, góc bẹt; hai đường thẳng vuông góc, hai đường thẳng song song; một số đặc điểm về cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi.
– Biết vẽ đường cao của hình tam giác, hai đường thẳng vuông góc, hai đường thẳng song song; hình chữ nhật, hình vuông khi biết độ dài các cạnh.
– Biết tính chu vi, diện tích của hình bình hành, hình thoi.
* Về một số yếu tố thống kê và tỉ lệ bản đồ:
– Biết đọc và nhận định (mức độ đơn giản) các số liệu trên biểu đồ cột.
– Biết một số ứng dụng của tỉ lệ bản đồ trong thực tế.
*Về giải bài toán có lời văn :
– Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ.
– Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có đến ba bước tính, trong đó có các bài toán: tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số của hai số.
* Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần hình thành nhân cách của học sinh:
– Phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và cụ thể hóa.
– Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất,… bằng ngôn ngữ nói, viết ở dạng khái quát.
Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ Giáo dục đã ban hành trên cơ sở giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, khuyến khích học sinh tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học để tự chiếm lĩnh rồi vận dụng kiến thức mới, góp phần tạo hứng thú và tự tin trong học tập toán của các đối tượng học sinh. Yêu cầu giáo viên phải dạy học theo cách phân hoá đối tượng học nhằm giải quyết chuẩn kiến thức kỹ năng tối thiểu và bồi dưỡng năng khiếu Toán học cho học sinh .
2.2. Thực trạng.
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy ở lớp 4 tôi đã nhận thấy:
– Chương trình toán lớp 4 là chương trình chuyển tiếp giữa các lớp 1, 2, 3. Học sinh được củng cố, mở rộng kiến thức về 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia và giải toán … đặc biệt là giải các bài toán điển hình qua các vòng số. Trên tập hợp số tự nhiên, phân số; học sinh tiếp tục được học các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản.
– Sự phát triển tâm sinh lí của sinh lớp 4 đang ở sự giao thời của lứa tuổi sao nhi đồng và lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tư duy cụ thể của các em đang chuyển dần sang tư duy trừu tượng, sự ghi nhớ có chủ định ngày một phát triển hơn. Song sự phát triển tâm lí, tri thức, kinh nghiệm chưa được nhiều, chưa nhận thức đầy đủ, khái quát mà các em vẫn thiên về nhận thức trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể.
– Nhìn chung động cơ học tập của các em tương đối tốt. Tuy nhiên, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục như nhau nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ, điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình, động cơ và thái độ học tập, năng lực học tập và khả năng tiếp thu bài cũng khác nhau nên trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Có nhiều học sinh tiếp thu bài nhanh, sâu sắc thì việc kiểm tra kiến thức, giảng dạy kiến thức mới, giáo viên thực hiện dễ dàng, các em dễ dàng làm được tất cả các bài tập giáo viên giao cho. Nhưng đối với các em học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán thì rất khó khăn, vì các em tiếp thu bài chậm, thậm chí không hiểu bài. Khi không hiểu bài dẫn đến trường hợp các em không tự trải nghiệm, tương tác; thời gian cả lớp làm bài các em này thường không tập trung học bài.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 155
- 1
- [product_views]
- 6
- 163
- 2
- [product_views]
- 8
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 125
- 4
- [product_views]
- 5
- 118
- 5
- [product_views]
- 8
- 110
- 6
- [product_views]
- 7
- 116
- 7
- [product_views]
- 0
- 188
- 8
- [product_views]
- 5
- 192
- 9
- [product_views]
- 1
- 187
- 10
- [product_views]