SKKN Một số biện pháp kết hợp giáo dục kỹ năng sống trong dạy học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2 (Bộ sách Cánh diều)

4.5/5

Giá:

100.000
Cấp học: Tiểu học
Môn: Tiếng Việt
Lớp: Lớp 2
Bộ sách: Cánh diều
Lượt xem: 455
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
25
Lượt tải:

2

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp kết hợp giáo dục kỹ năng sống trong dạy học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2 (Bộ sách Cánh diều) ” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

1. Tạo sự gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh
2. Lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào phân môn Tập làm văn
2.3.3. Nêu gương người tốt, việc tốt
4. Tăng cường thực hành, trải nghiệm
5. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc GDKNS tại gia đình.

Mô tả sản phẩm

1.1. Lí do chọn đề tài

Để đáp ứng nhu cầu của đất nước ta hiện nay trong công cuộc hội nhập quốc tế thì đòi hỏi giáo dục cũng phải theo một hướng mới. Đó là chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Trong tình hình hiện nay, khi công nghệ thông tin bùng nổ, thế giới trong vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của thời đại thì con người phải có kĩ năng sống (KNS) để học, để hòa nhập, để hợp tác và cùng chung sống. Vì vậy, đòi hỏi giáo dục cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu thế chung. Bởi cuộc sống hiện tại đem lại những thay đổi nhanh chóng về mọi mặt của xã hội, đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa từng gặp, chưa từng trải nghiệm. Từ đó, con người dễ hành động và ứng phó theo cảm tính nên không tránh khỏi rủi ro. Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống (GDKNS) là điều vô cùng cần thiết để đáp ứng những thách thức và nắm bắt thời cơ trong thời kì hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa. Chính vì thế, trong những năm gần đây GDKNS cho học sinh đã được đưa vào các nhà trường bằng các văn bản chỉ đạo, các Chỉ thị, các Nghị quyết và được coi là một nội dung quan trọng trong việc giáo dục học sinh hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công. Nội dung GDKNS đã được tích hợp trong các môn học và hoạt động giáo dục. Đặc biệt, rèn luyện KNS cho học sinh được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.” Chính vì thế KNS được gắn với bốn trụ cột của giáo dục đó là: Học để biết; Học làm người; Học để sống với người khác và Học để làm.

Trong thời đại hiện nay, KNS có thể được coi là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen lành mạnh, tích cực. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách. Ngược lại người thiếu KNS thường dễ bị vấp ngã, dễ thất bại trong cuộc sống.

Tập làm văn là phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp các kiến thức từ các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Học Tập làm văn đối với học sinh lớp Hai là bắt đầu học kĩ năng tạo lập văn bản nói và văn bản viết, kĩ năng kể, tả đơn giản về những sự vật gần gũi, gắn bó với đời sống các em và kĩ năng giải quyết các tình huống đơn giản rất gần gũi trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, chương trình và nội dung dạy học phân môn Tập làm văn ở Tiểu học nói chung, ở lớp Hai nói riêng chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến KNS và có khả năng tích hợp KNS rất cao.

Trong thực tế, có một bộ phận không nhỏ giáo viên cũng như phụ huynh học sinh chưa chú ý đến việc rèn KNS cho các em mà còn chú trọng nhiều đến hình thành kiến thức. Trong khi đó, xã hội ngày càng phát triển dẫn đến những đổi mới về môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ theo cả hai hướng: tích cực và tiêu cực. Một bộ phận học sinh đã bắt nhịp tốt với yêu cầu phát triển chung của xã hội. Các em hình thành được những kĩ năng cần thiết để học tập và phát triển. Bên cạnh đó, một bộ phận học sinh khác thiếu KNS nên chậm thích ứng trong môi trường sống. Trong những năm gần đây, các biểu hiện tiêu cực của học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng. Có nhiều học sinh lớn lên đạo đức lối sống, nếp sống văn minh ngày càng đi xuống. Biểu hiện ở chỗ coi thường nội quy trường, lớp; thiếu tôn trọng người lớn, lười hoạt động, ỷ lại người khác; trong giao tiếp có biểu hiện của việc thiếu lịch sự như nói trống không, trả lời cắt ngang không có đầu có cuối… Theo tôi, đó là vì các em thiếu KNS. Mặc dù KNS là rất quan trọng nhưng trên thực tế việc tích hợp, lồng ghép KNS vào dạy học ở trường Tiểu học còn gặp nhiều lúng túng, vướng mắc về nội dung, cách thức thực hiện. Vì vậy trong quá trình dạy học Tập làm văn tôi đã nghiên cứu, áp dụng vào giảng dạy và đã thu được những kết quả rất tích cực . Xuất phát từ thực tiễn như vậy nên tôi đã chọn đề tài: Một số kinh nghiệm tích hợp giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh lớp Hai trong phân môn Tập làm văn có hiệu quả.

1.2. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu đề tài này để tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp điều kiện thực tế và đạt hiệu quả cao trong dạy học

– Thực hành dạy học tích hợp KNS trong chương trình Tập làm văn lớp 2.

– Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kỹ năng phù hợp.

1.3. Đối tượng nghiên cứu

– Học sinh lớp 2B.

– Nghiên cứu các KNS và nội dung các bài học có khả năng tích hợp KNS. 

– Các phương pháp dạy học tích cực để tích hợp GD KNS hiệu quả.

1.4. Phương pháp nghiên cứu

  – Phương pháp nghiên cứu xây dựng lí thuyết. 

  – Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

   – Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.

  – Phương pháp dạy thực nghiệm.

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

Đã có rất nhiều người nghiên cứu và viết về đề tài này nhưng chủ yếu quan tâm đến các hoạt động ngoài giờ lên lớp và các môn học khác mà ít quan tâm đưa vào lồng ghép KNS trong môn Tiếng Việt  nói chung và  phân môn Tập làm văn nói riêng.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.1.1. Khái niệm về kĩ năng sống

Kĩ năng sống là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về KNS:

– Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.

– Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEP), KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.

– Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), 

KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết – Học làm người – Học để sống với người khác – Học để làm. 

Tuy có sự khác biệt giữa các quan niệm về KNS nhưng có thể nói bản 

chất của KNS là kĩ năng tự quản lí bản thân và các kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. (Mã Mô đun TH 39 – Tài liệu BDTX giáo viên Tiểu học)

Ví dụ: Ở nhà một mình các em có khả năng đối phó với kẻ xấu, tự bảo vệ mình,….

2.1.2.  Tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho học sinh Tiểu học

– KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.

Thực tế cho thấy, khoảng cách giữa nhận thức và hành vi khá xa, có nhận thức đúng chưa hẳn đã có hành vi đúng.

Ví dụ: Học sinh vẫn biết là đi học thì cần học bài, làm bài đầy đủ nhưng có học sinh vẫn không làm bài. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và giao tiếp rất kém. Các em vẫn biết đánh nhau, chửi bậy, …. là vi phạm đạo đức nhưng nhiều học sinh vẫn văng tục tức thì nếu có vấn đề không vừa lòng với bạn. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu KNS. KNS là nhịp cầu giúp con người biến nhận thức thành hành vi, thái độ và các thói quen lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực; họ thành công hơn trong cuộc sống và làm chủ cuộc sống của mình. 

– GDKNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.

Lứa tuổi học sinh Tiểu học là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ước mơ, có tính ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động… Nhất là trong điều kiện xã hội ngày nay, điều kiện kinh tế phát triển các nguồn thông tin, mạng internet, tệ nạn xã hội tràn ngập khắp nơi. Thế hệ trẻ nói chung, đối tượng học sinh Tiểu học nói riêng luôn chịu tác động nhiều chiều. Nếu không được GDKNS, thiếu hiểu biết, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi sai lệch về đạo đức, có lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách, không có khả năng ứng phó với ngoại cảnh. 

Học sinh Tiểu học là độ tuổi phù hợp nhất cho việc phát huy KNS và phát triển tư duy. Trẻ cần được trang bị những kĩ năng then chốt cho sự thành công mai sau, như: Kĩ năng tư duy phản biện, sự sáng tạo, sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kí năng hợp tác, kĩ năng xử lí tình huống,… Học sinh được rèn luyện về tư duy phản biện, phát triển sự nhạy bén, lập luận logic, cách lật ngược vấn đề, khả năng tập trung, cách hỏi đáp, trả lời thông minh trước nhiều vấn đề khác nhau. Như vậy, việc trang bị các KNS cho học sinh Tiểu học giúp trẻ rèn luyện kĩ năng tư duy, cách xử lý trong tình huống để trẻ tự phát triển về nhận thức cũng như nhân cách của bản thân sau này.

– GD KNS nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Mục tiêu giáo dục đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. 

Chương trình và nội dung dạy học phân môn Tập làm văn chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến KNS. Thông qua các hoạt động học tập, học sinh được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai… Đây chính là cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều KNS cần thiết.

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2.2.1. Đối với học sinh

Học sinh phổ thông nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng hiện nay còn rất nhiều hạn chế về KNS. Trong quá trình giáo dục, địa phương nơi tôi công tác thường mới chú trọng đến dạy kiến thức mà chưa chú trọng đến dạy KNS cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là vấn đề khó khăn với các em. Qua điều tra, khảo sát cho thấy một số tình trạng sau:

– Tình trạng học sinh nói tục, chửi bậy: Rất nhiều học sinh trong trường tôi, trong lớp tôi chủ nhiệm sẵn sàng văng tục chửi bậy khi mà gặp điều gì đó không vừa ý. Giữa hai bạn trong lớp có thể đang chơi với nhau vẫn xảy ra mâu thuẫn, tranh luận rồi dẫn đến cãi vã nhau tức thì.

– Tình trạng học sinh nói chuyện chưa lịch sự, chưa lễ phép, phát biểu xây dựng bài chưa thành câu.

Ví dụ: Khi gặp một ai đó, các em chào “Bác.” thay cho câu chào đầy đủ “Cháu chào bác ạ.”; Hoặc khi Em hãy cho biết, bạn nhỏ hỏi bố điều gì?”. Học sinh sẽ trả lời “Ngày hôm qua đâu rồi?” hoặc “Ngày hôm qua đâu?”… mà đúng ra các em phải trả lời đầy đủ “Con thưa cô/(thầy), bạn nhỏ hỏi bố là ngày hôm qua đâu rồi, ạ.” (tập đọc 1 – trang 15 sách Tiếng việt lớp 2 tập 1 – bộ sách Cánh diều)

Câu trả lời của các em thiếu mất phần thưa gửi thể hiện sự lễ phép, tôn trọng người lớn. Tôi cho rằng, cách chào, cách đáp như vậy của các em không phải do các em hỗn láo gì mà chỉ vì kĩ năng giao tiếp của các em còn hạn chế, các em chưa biết cách chào, cách đáp như thế nào là trọn vẹn nhất.

– Tình trạng học sinh sống thu mình, nhút nhát thiếu tự tin, hay ích kỉ chưa biết hợp tác, giúp đỡ nhau. Một số học sinh trong lớp tôi ngồi học bài rất chăm chú, nhưng không giơ tay phát biểu bài trong cả thời gian dài. Khi tôi đến kiểm tra bài làm của em thì thấy các em làm bài vẫn đúng, trả lời (ghi vở) được các yêu cầu do tôi đưa ra. Chứng tỏ các em hiểu bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin vào bản thân. Thường thường trong lớp, tôi hay xếp xen kẽ học sinh tích cực, học tập tốt ngồi cùng với những học sinh còn chậm, còn rụt rè để các em có cơ hội giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Song không phải em học sinh tích cực nào cũng sẵn sàng giúp bạn. Có những em thờ ơ với việc giúp đỡ bạn. Những em đó thường hoàn thành yêu cầu của mình rồi ngồi chơi, làm việc riêng. Lại có em muốn giúp bạn nhưng không biết giúp như thế nào.

2.2.2. Đối với Giáo viên

– Hiện nay công tác GDKNS của giáo viên tới học sinh đôi lúc chưa được thường xuyên, liên tục và chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Một bộ phận giáo viên vẫn coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp do đó công tác rèn KNS cho các em đem lại hiệu quả chưa cao.

– Do trình độ và khả năng nhận thức của GV nên hình thức, phương pháp truyền tải KNS đến các em chưa linh hoạt, chưa phù hợp nên dẫn đến học sinh chưa có cơ hội, điều kiện để  trải nghiệm, thực hành KNS trong các hoạt động. Đôi khi, có những GV do cố gắng chạy theo chất lượng, dành nhiều thời gian để dạy kiến thức hơn là rèn KNS. Mặt khác, nhiều giáo viên không được tập huấn về công tác giáo dục KNS cho học sinh nên chưa có phương pháp giáo dục phù hợp và thực sự có hiệu quả.

– Chương trình GDKNS chủ yếu đang được tích hợp, lồng ghép trong một số môn học và một số hoạt động giáo dục khác cho nên chưa có nhiều thời gian để học sinh vận dụng. Các hoạt động tập thể về GDKNS cơ bản mới đảm bảo được chiều rộng, đó là cung cấp thông tin, lý thuyết mà chưa đi sâu vào các tình huống thực tế để các em có cơ hội thực hành, vận dụng vào tình huống cụ thể.

2.2.3. Về phía địa phương và phụ huynh học sinh

Trường Tiểu học tôi đang công tác là một trường miền núi của huyện, người dân chủ yếu làm nông nghiệp. Số học sinh con em dân tộc thiểu số nhiều,  khoảng cách từ nhà đến trường của nhiều em rất xa (có em cách 9 – 10km) nên các em còn rất rụt rè trong giao tiếp, thậm chí các em ở nhà thường xuyên giao tiếp với bố  mẹ bằng tiếng Mường nên khi ra trường, lớp các em vẫn có thói quen nói chuyện, trao đổi với nhau bằng tiếng Mường như ở nhà. Các em chỉ thay đổi khi được giáo viên, bạn bè nhắc nhở thì mới giao tiếp với nhau bằng tiếng phổ thông (tiếng Kinh). Qua đó cũng đủ để thấy được KNS của các em còn hạn chế nhiều. Một số học sinh con gia đình nông nghiệp điều kiện kinh tế khó khăn hơn, bố mẹ thường đi làm ăn xa phải ở với ông bà nên mức độ chăm sóc, dạy bảo có phần hạn chế (do ông bà đã già yếu lại thường chiều chuộng các cháu). Bên cạnh đó vẫn còn bộ phận phụ huynh học sinh chưa thật sự chú ý đến giáo dục KNS cho các em để các em “bơi” tự do. Một số học sinh khác lân la vào các quán xá ven đường vui chơi, chơi điện tử. Đây là điều kiện khá thuận lợi để các tệ nạn xã hội, tệ nạn học đường len lỏi vào các em nếu không có sự quản lí, giáo dục tốt từ nhà trường, gia đình và xã hội.

2.2.4. Kết quả điều tra thực trạng

Qua thực tế giảng dạy ở lớp, tôi thấy KNS của học sinh thể hiện chưa rõ rệt, còn rụt rè khi trình bày ý kiến, thiếu tự tin và chưa tự nhận thức được vấn đề, chưa biết hợp tác khi làm việc nhóm, giao tiếp thiếu lịch sự, thiếu lễ phép. Chính vì thế, tôi đã tiến hành khảo sát KNS của học sinh lớp tôi vào thời điểm giữa học kì 1 với chủ đề “Kĩ năng của em”. Tổng số học sinh: 25 em. Kết quả khảo sát thu được như sau:

 

Kết quả Kĩ năng

giao tiếp

  Kĩ năng

hợp tác

Kĩ năng tự nhận thức Kĩ năng

chia sẻ

SL TL SL TL SL TL SL TL
Vận dụng tốt 6 24% 5 20% 7 28% 6 24%
Biết cách vận dụng 8 32% 7 28% 8 32% 9 36%
Vận dụng

chưa tốt

11 44% 13 52% 10 40% 10 40%

 

Từ kết quả khảo sát ở trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh chưa có kĩ năng tốt còn nhiều. Vì vậy tôi đề cao việc giáo dục KNS cho học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Từ đó từng bước tôi xây dựng kế hoạch, đưa ra các giải pháp và áp dụng trong quá trình dạy học nói chung, trong phân môn Tập làm văn nói riêng.  

2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề

2.3.1. Tạo sự gần gũi, thân thiện giữa giáo viên và học sinh

– Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi, gắn kết giữa học sinh và Giáo viên chủ nhiệm, tôi đã tạo điều kiện để học sinh tự giới thiệu về mình trước cô giáo và tập thể lớp. Khuyến khích các em chia sẻ với giáo viên, với bạn về những đam mê, sở thích, ước mơ và cả những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống mà các em gặp phải. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau hơn.

– Tôi chủ động đến từng gia đình học sinh, tìm hiểu kĩ hoàn cảnh gia đình của từng em. Mỗi em có một hoàn cảnh khác nhau. Hoàn cảnh gia đình ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập, hành vi thái độ của các em. Các em khi đi học, lúc thì thiếu sách vở, khi quên bút thước, việc hoàn thành bài tập ở nhà chưa thường xuyên và hiệu quả chưa cao.… Tôi chủ động động viên, giúp đỡ các em những việc nhỏ như bọc sách vở, hướng dẫn cách ghi nhãn vở, cách giữ gìn sách vở đồ dùng, có khi cho các em cái bút, cái thước… Qua việc làm nhỏ đó, tôi đã gây dựng được niềm tin của các em với Giáo viên. Vì thế những lời nói của tôi được các em lắng nghe và trao đổi một cách tích cực. Tôi nhận thấy, các em bớt nhút nhát, mặc cảm mà đã tự tin hơn về bản thân mình. 

– Sau khi nhận lớp, tôi cho học sinh tự tìm chỗ ngồi theo ý mình thích. Trong quá trình dạy tôi tiếp tục theo dõi, tìm hiểu để có những điều chỉnh phù hợp với từng em. Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó, áp đặt.

Ví dụ:  Thời gian đầu mới nhận lớp, nhiều học sinh chỉ chăm chú làm bài, thậm chí có những chỗ không hiểu nhưng vẫn làm nên dẫn đến sai kết quả. Từ chỗ giáo viên gần gũi học sinh và luôn động viên, tạo điều kiện cho các em được nói, được trình bày nên trong các giờ học, có những chỗ các em chưa hiểu hoặc hiểu chưa rõ ràng, các em đã mạnh dạn giơ tay, nêu câu hỏi để được cô giúp đỡ.

2.3.2. Lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào phân môn Tập làm văn

Việc giáo dục KNS cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ giờ học nào. Tuy nhiên tôi đã tìm hiểu nội dung từng bài học, dựa vào mục tiêu của từng bài để lựa chọn nội dung tích hợp KNS phù hợp. Dưới đây là các nội dung và địa chỉ giáo dục KNS mà tôi đã và đang thực hiện.

 

Tuần Nội dung chính bài học Các KNS cơ bản được giáo dục Các phương pháp/ kĩ thuật dạy học
1 Tự giới thiệu – Tự nhận thức về bản thân.

– Giao tiếp: cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe ý kiến người khác.

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

2 Chào hỏi. Tự giới thiệu – Tự nhận thức về bản thân.

– Giao tiếp: cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe ý kiến người khác.

– Tìm kiếm và xử lí thông tin.

– Trải nghiệm

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

3 Sắp xếp câu trong bài; Lập danh sách học sinh – Tư duy sáng tạo: khám phá và kết nối các sự việc, độc lập suy nghĩ.

– Hợp tác.

– Tìm kiếm và xử lí thông tin.

– Động não.

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

4 Cảm ơn, xin lỗi – Giao tiếp: cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe ý kiến người khác. 

– Tự nhận thức về bản thân.

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

5 Trả lời câu hỏi. Đặt tên cho bài. Luyện tập về mục lục sách. – Giao tiếp.

– Hợp tác.

– Tư duy sáng tạo: Độc lập suy nghĩ.

– Tìm kiếm thông tin.

– Động não.

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

7 Kể ngắn theo tranh; Luyện tập về Thời khóa biểu. – Thể hiện sự tự tin khi tham gia các hoạt động học tập.

– Lắng nghe tích cực.

– Quản lí thời gian.

– Động não.

– Làm việc nhóm- chia sẻ thông tin.

– Đóng vai.

8 Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi – Giao tiếp: cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe ý kiến người khác.

– Hợp tác.

– Ra quyết định. 

– Tự nhận thức về bản thân.

– Lắng nghe phản hồi tích cực.

– Trải nghiệm, thảo luận nhóm, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực.

– Động não.

10 Kể về người thân – Xác định giá trị.

– Tự nhận thức bản thân.

– Lắng nghe tích cực.

– Thể hiện sự cảm thông.

– Trải nghiệm.

– Đóng vai.

– Trình bày 1 phút.

11 Chia buồn, an ủi. – Thể hiện sự cảm thông.

– Giao tiếp: cởi mở, tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe ý kiến người khác.

– Tự nhận thức về bản thân. 

– Đóng vai.

– Trải nghiệm, thảo luận nhóm, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực.

13 Kể về gia đình –  Xác định giá trị.

– Tự nhận thức về bản thân.

– Tư duy sáng tạo.

– Thể hiện sự cảm thông.

– Đóng vai.

– Trình bày 1 phút.

15 Chia vui. Kể về anh chị em – Thể hiện sự cảm thông.

–  Xác định giá trị.

– Tự nhận thức về bản thân.

– Đặt câu hỏi.

– Trình bày ý kiến cá nhân.

– bài tập tình huống.

16 Khen ngợi. Kể ngắn về con vật. Lập thời gian biểu – Kiểm soát cảm xúc.

– Quản lí thời gian.

– Lắng nghe tích cực.

– Đặt câu hỏi.

– Trình bày ý kiến cá nhân.

– Bài tập tình huống.

17 Ngạc nhiên, thích thú. Lập thời gian biểu. – Kiểm soát cảm xúc.

– Quản lí thời gian.

– Lắng nghe tích cực.

– Đặt câu hỏi.

– Trình bày ý kiến cá nhân.

– Bài tập tình huống.

19 Đáp lời chào, lời tự giới thiệu. – Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời chào theo tình huống.
21 Đáp lời cảm ơn.

(Bài tập 2)

– Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Tự nhận thức.

Thực hành đáp lại lời cảm ơn theo tình huống.
22 Đáp lời xin lỗi.

(Bài tập 2)

– Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời xin lỗi theo tình huống.
25, 26 Đáp lời đồng ý (Bài tập 1) – Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời đồng ý theo tình huống.
28,

29

Đáp lời chia vui

(Bài tập 1)

– Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời chúc mừng theo tình huống.
31 Đáp lời khen ngợi (Bài tập 1) – Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Tự nhận thức.

Thực hành đáp lại lời khen theo tình huống.
32 Đáp lời từ chối

(Bài tập 2)

– Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời từ chối theo tình huống.
33 Đáp lời an ủi (Bài tập 2) – Giao tiếp: Ứng xử văn hóa.

– Lắng nghe tích cực.

Thực hành đáp lại lời an ủi theo tình huống.

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)