SKKN Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy

Giá:
50.000 đ
Môn: Địa lí
Lớp: 9
Bộ sách:
Lượt xem: 2078
Lượt tải: 5
Số trang: 31
Tác giả: Bùi Thị Thanh Hà
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Phong
Năm viết: 2020-2021
Số trang: 31
Tác giả: Bùi Thị Thanh Hà
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Phong
Năm viết: 2020-2021

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.

Mô tả sản phẩm

  1. MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài

Trong nhiều năm qua, nền kinh tế xã hội trên toàn thế giới có nhiều chuyển biến nhanh chóng. Ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn đề giáo dục luôn được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu của cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề trong  cuộc sống.

Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”

Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả…ở bậc Tiểu học,  đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm…ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”. 

Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp. 

Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. 

Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt. 

 Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra một số nguyên nhân sau: 

Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30  phút để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.

Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao…

Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức.

Qua quá trình giảng dạy từ phương pháp truyền thống chuyển đổi sang phương pháp giảng dạy theo hướng mới đó là : Lấy học sinh làm trung tâm, tập trung đầu tư phương pháp làm sao cho học sinh chủ động nắm bắt kiến thức ngay trên lớp thông qua việc vận dụng từ những phương pháp tối ưu trên bục giảng để học sinh tự làm chủ , tự phát huy để lỉnh hội những kiến thức cơ bản ( trên chuẩn kiến thức kỉ năng ) là một việc làm thật sự thách thức và khó khăn cho cả thầy và trò ( làm sao cho hiệu quả , không chạy theo hình thức ), với kinh nghiệm là một giáo viên đã có tuổi nghề gần 20 năm . Những thách thức đó là :

– Những thách thức đối với môn Địa lí ở trường phổ thông
Vị trí, vai trò của môn Địa lí phổ thông trong thực hiện mục tiêu giáo dục
Điều 23, Luật Giáo dục quy định mục tiêu của giáo dục phổ thông là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con  người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh (HS) những kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết về Trái Đất và những hoạt động của con người trên bình diện quốc gia và quốc tế, làm cơ sở cho hình thành thế giới quan khoa học; giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn; đồng thời rèn luyện cho HS các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước thờiđại.
          – Môn Địa lí còn có nhiều khả năng bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy (tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán,…); trí tưởng tượng và óc thảm mĩ; rèn luyện cho HS một số kĩ năng có ích trong đời sống và sản xuất. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho HS ý thức trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
Vì vậy, Địa lí là môn học không thể thiếu được trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông, nhằm góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông như Luật Giáo dục đã nêu.

Những khó khăn gặp phải trong quá trình đổi mới:
          – Một số giáo viên (GV) Địa lí vẫn chưa thực sự thấm nhuần bản chất, hướng và cách thức đổi mới PPDH Địa lí; hiểu biết về cơ sở lí luận, thực tiễn của đổi mới PPDH.  
        – Đa số GV vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy HS. 
        – Nhiều GV lên lớp theo kiểu dạy “chay”, không sử dụng bản đồ/lược đồ ngay cả trong các tiết học có nội dung về địa lí khu vực, quốc gia, tổ quốc và địa phương. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn nặng về mô tả, minh hoạ là chủ yếu.
        – Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu. Dạy theo lớp là chủ yếu. Các hình thức dạy học cá nhân, nhóm, ngoài trời còn được ít, hoặc chưa được thực hiện, hiệu quả thực hiện còn thấp.
        – Cơ sở vật chất phục vụ dạy học và các phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ.[1].

……

Vì thế, chương trình giáo dục mới rất chú trọng đến việc phát huy tư duy tổng hợp, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự học của học sinh, trong đó bài ôn tập góp phần rất quan trọng. Những bài ôn tập chỉ được đánh giá tốt khi nó phát huy cao độ khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức đã học, xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất của con người, củng cố các kĩ năng phân tích so sánh và giải thích các hiện tượng có liên quan.
Bài ôn tập trở nên vô cùng cần thiết cho vấn đề củng cố kiến thức cho các em trong tất cả các môn học. Riêng đối với môn Địa lí thì đây là một trong những bài khó dạy, vì trong sách giáo khoa không có bài ôn tập cụ thể, lại không có sách nào hướng dẫn một tiết ôn tập một cách chi tiết. Chính vì lẽ đó giáo viên khi dạy các tiết này thường gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công phu, kiến thức tổng hợp nhuần nhuyễn, kĩ năng phân tích thuần thục và phải có phương pháp dạy học hợp lí, bên cạnh đó học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy đủ trước những nội dung ôn tập ở nhà thì mới dạy tốt được tiết ôn tập. Tuy nhiên, khi tổ chức dạy học ở lớp, tiết ôn tập vẫn rất khó thành công.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Sử dụng video “Khát vọng non sông” trong dạy học môn Lịch sử& Địa lí lớp 8 –phân môn Lịch sử-bài “Phong trào Tây Sơn
8
Lịch Sử&Địa Lí
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)