SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm để gắn kết phụ huynh – học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT
- Mã tài liệu: MT0054 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 1192 |
Lượt tải: | 19 |
Số trang: | 39 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Minh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Diễn Châu 5 |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 39 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Minh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | THPT Diễn Châu 5 |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm để gắn kết phụ huynh – học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT “ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Khảo sát mối quan hệ giữa phụ huynh và học sinh
– Lập nhóm Zalo của phụ huynh – học sinh và giáo viên
– Phát huy tối đa hiệu quả các tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm
– Viết “ Bức tâm thư
– Mời phụ huynh tham gia cùng học sinh các sự kiện của trường và lớp.
– Tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho cả phụ huynh và học sinh
– Công tác phối kết hợp với các lực lượng giáo dục khác
Mô tả sản phẩm
PHẦN I – ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Gia đình được xem là trường học đầu tiên hình thành và phát triển nhân cách của con người. Gia đình cũng là nơi ươm mầm trí tuệ và cảm xúc cho mỗi cá nhân. Đây là một trong những nhân tố chủ chốt để con người thành công sự nghiệp và cuộc sống. Chính vì vậy, việc gắn kết giữa học sinh với phụ huynh, gia đình là vô cùng quan trọng, giúp học sinh tìm thấy một điểm tựa tâm hồn vững chắc, phát huy hết khả năng tiềm ẩn của bản thân, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong những năm gần đây nhiều vấn đề nổi cộm trong học đường được cả xã hội quan tâm, đặc biệt là các vấn đề tiêu cực xảy ra với mức độ ngày càng tăng dần. Một trong những nguyên nhân để xảy ra các vấn đề tiêu cực chính là sự thiếu quan tâm học sinh từ phía gia đình, cùng với đó là sự thiếu gắn kết giữa phụ huynh
– học sinh. Điều đó đã gây nên không ít sự việc đau lòng và đã được báo chí, dư luận xã hội phản ánh trong thời gian qua.
Trong thực tiễn làm công tác chủ nhiệm, chúng tôi nhận thấy bên cạnh những học sinh ngoan, chăm chỉ có thành tích học tập tốt thì còn một bộ phận không nhỏ các học sinh khó giáo dục, kết quả học tập kém. Nguyên nhân phần lớn do các em thiếu sự quan tâm của phụ huynh hoặc giữa các em và cha mẹ của mình chưa tìm được tiếng nói chung, chưa có sự thấu hiểu lẫn nhau.
Là những giáo viên chủ nhiệm tâm huyết, chúng tôi luôn trăn trở và tìm cách khắc phục sao cho giữa phụ huynh và học sinh có sự gắn kết bền chặt, từ đó nâng cao kết quả học tập và rèn luyện cho các em. Trong những năm qua khi tham gia công tác chủ nhiệm chúng tôi đã thu được những kết quả khả quan, giúp phụ huynh và học sinh xích lại gần nhau, thấu hiểu và chia sẻ với nhau nhiều hơn để các em phát huy hết tiềm năng sẵn có, phát triển toàn diện tài năng, trí tuệ và đạo đức.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn trình bày giải pháp: ”Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm để gắn kết phụ huynh – học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Phạm Hồng Thái”
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đúc rút kinh nghiệm của một số giải pháp mà bản thân chúng tôi qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm để kết nối phụ huynh – học sinh. Đặc biệt, đề tài càng có ý nghĩa hơn trong những năm học mà dịch bệnh covid – 19 đang hoành hành, khi mà phần lớn thời gian học tập của các em là ở nhà.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp kết nối phụ huynh và học sinh
Phạm vi áp dụng: Trường THPT Phạm Hồng Thái, lớp chủ nhiệm 11C1 năm học 2020 – 2021, lớp chủ nhiệm 12C1 năm học 2021 – 2022 và lớp 12C2 năm học 2021 – 2022.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thu thập, tổng hợp các kiến thức về cơ sở lí luận của đề tài, các văn bản về vai trò, chức năng và phẩm chất của giáo viên chủ nhiệm lớp. Từ đó phân tích và tổng hợp các nội dung có liên quan đến đề tài.
Phương pháp thực nghiệm: Ứng dụng từng giải pháp sáng kiến vào từng hoàn cảnh cụ thể. Từ đó, đánh giá hiệu quả thực hiện qua thái độ và kết quả học tập của học sinh.
Phương pháp thu thập, xử lí số liệu: Thống kê kết quả giáo dục của học sinh, tìm hiểu gia đình học sinh thông qua phiếu điều tra, và bình chọn qua zalo… Từ đó, xử lí số liệu đưa ra kết quả đánh giá tổng hợp, khách quan nhất.
Phương pháp đàm thoại: Thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh, với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các giáo viên bộ môntrong công tác phối hợp giáo dục các em học sinh.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu kết quả rèn luyện, giáo dục của HS trước và sau khi áp dụng các giải pháp.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số thao tác khác như phân tích,tổng hợp.
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay có rất ít đề tài của các giáo viên trường THPT đề cập đến vấn đề kết nối hai thế hệ phụ huynh và học sinh. Hơn nữa, do đặc thù, điều kiện cở sở vật chất, mức sống và trình độ văn hoá ở các vùng miền khác nhau nên cách thức nghiên cứu và sử dụng các biện pháp kết nối giữa phụ huynh và học sinh cũng sẽ có sự khác nhau ở các trường cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn trình bày một vài ý tưởng mà sau khi áp dụng ở những lớp học mà chúng tôi trực tiếp làm công tác chủ nhiệm và đã thu được những kết quả khả quan, các phụ huynh và học sinh đã bước đầu tìm thấy những tiếng nói chung.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm vừa đóng vai trò quản lí hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò là người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của taạp thể lớp. Giáo viên chủ nhiệm vừa là giáo viên bộ môn vừa là người dìu dắt học sinh phấn đấu thành con ngoan, trò giỏi, công dân tốt, có ích cho xã hội.
Theo điều lệ trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp có những vai trò sau đây:
– Thay mặt Hiệu trưởng quản lí một lớp học:
GVCN lớp do Hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học .
Vai trò quản lí của GVCN lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp.
GVCN phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của của học sinh trong lớp trước Hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của Nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
– Xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết:
GVCN là linh hồn của lớp học. Bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, GVCN xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em của mình trưởng thành theo từng năm tháng.
Học sinh kính yêu GVCN như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của GVCN càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt.
Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp nhưng GVCN bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ. Bởi vì GVCN không chỉ dạy kiến thức mà còn dành nhiều tình cảm, tâm huyết để giáo dục học sinh. Ngoài ra họ còn là nhân tố gắn kết các thành viên trong lớp với nhau và gắn kết các lực lượng giáo dục trong đó có sự gắn kết giữa phụ huynh và học sinh.
– Tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp:
Vai trò của GVCN thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ nhóm, đồng thời tổ chức các mặt
hoạt động theo kế hoạch hoạt động hàng năm. Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, GVCN lớp quán xuyến các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ.
– Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp:
GVCN lớp cần nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức hoạt động của các đoàn thể. Với tinh thần, trách nhiệm, với kinh nghiệmcông tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra Ban chấp hành chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với Ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
– Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối kết hợp với các lực lượng giáo dục:
Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy GVCN phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục và cùng với các lực lượng giáo dục đó hoạt động một cách có hiệu quả nhất.
Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của GVCN lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục đối với học sinh trong lớp.Đặc biệt là trong phối hợp với gia đình, nhà trường để giúp đỡ, cảm hoá học sinh trong rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.
1.2. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THPT
Đối với học sinh phổ thông, độ tuổi mà trình độ, kiến thức cuộc sống còn nhiều hạn chế, GVCN trở thành chỗ dựa tinh thần cho các em; là nhà tư vấn, hỗ trợ, định hướng, dẫn dắt cho các em về suy nghĩ, hành động, nuôi dưỡng mơ ước cho cho các em về tương lai để sau này các em trở thànnhững chủ nhân tương lai của đất nước.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em có thể có những cảm xúc và hành vi rất khác nhau trước một vấn đề xảy ra trong cuộc sống của các em. Ở tuổi này các em muốn khẳng định sự độc lập và tạo dựng hình ảnh bản thân, tuy nhiên đôi khi có những hành vi mang tính thử nghiệm, bốc đồng. Chính những thay đổi về đặc điểm tâm lí đó kéo theo những sự thay đổi trong cách ứng xử của các em trong cuộc sống. Các em từ gần gũi với cha mẹ, chuyển sang gần gũi với bạn bè, trong tâm lí các em xảy ra mâu thuẫn giữa các giá trị gia đình và bạn bè, đồng thời các em cũng dễ bị tác động bởi các nhóm xã hội.
– Độ tuổi này tiếp thu cái mới nhanh, rất thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan, nông nổi, kiêu ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao trình độ. Các em rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, rất lạc quan yêu đời nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại.
Chính những đặc điểm của lứa tuổi đó, GVCN cần phải gần gũi với các em nhiều hơn, nắm bắt được đặc điểm về tính cách, hoàn cảnh, ưu điểm của từng học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp, đồng thời giáo viên cũng nên giúp phụ
huynh cũng hiểu rõ những tâm tư, tình cảm của con mình hơn để có thể làm bạn và đồng hành cùng con.
1.3. Vai trò của phụ huynh trong giáo dục
Giáo dục của nước nhà đang có sự phát triển mạnh mẽ. Để đạt được hiệu quả giáo dục bên cạnh vai trò của các thầy cô giáo thì phụ huynh cũng là một nhân tố chủ chốt trong việc giáo dục của học sinh, đặc biệt trong năm học mà thời gian các em học trực tuyến ở nhà nhiều hơn thời gian học trực tiếp trên lớp. Yếu tố quyết định đến sự thành công của học sinh ở giai đoạn này và trong suốt hành trình của các em chính ở việc phụ huynh trở thành những người đồng hành và truyền cảm hứng học tập cho các con bằng sự khích lệ không ngừng.
– Các em học sinh thường có đam mê, nhiệt huyết và nhiều ước mơ nhưng đôi khi vì suy nghĩ chưa chín chắn mà các em có những tư duy sai lệch. Vì vậy, đây là lúc mà vai trò của phụ huynh trong việc định hướng giáo dục con cái. Các bậc phụ huynh phải giúp cho con em của mình hiểu rõ thế mạnh, điểm hạn chế của bản thân cũng như cách phát huy, hạn chế tối đa điểm mạnh, điểm yếu đó.
– Ở lứa tuổi đang lớn, đang trưởng thành của học sinh THPT tâm lí trẻ dễ bị tác động, bị ảnh hưởng tiêu cực. Cha mẹ cần phải luôn ở gần con của mình, hỏi thăm, động viên và cùng con tìm ra, và “gỡ rối” những khó khăn mà con đang vướng mắc.
Chỉ khi có tâm lí tốt thì các em mới tập trung vào việc học tập và rèn luyện đạo đức. Như vậy gia đình trở thành nơi động viên tinh thần cho học sinh; đây là yếu tố vô cùng cần thiết và quan trọng để đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.
– Ở trong trường học, học sinh được học tập rất nhiều kiến thức, kĩ năng, được rèn luyện đạo đức nhưng điều đó chưa đủ mà các em phải tự học rất nhiều khi ở nhà. Người sẽ giúp học sinh thực hiện nhiệm vụ này chính là cha mẹ. Bằng nhiều cách khác nhau, phụ huynh giúp đỡ con mình đạt được hiệu quả học tập cao nhất. Tuy nhiên, cha mẹ cần phải nhẹ nhàng, động viên chứ đừng để con rơi vào tình trạng quá tải, áp lực, stress.
Như vậy, có thể khẳng định phụ huynh đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Và để để đạt được điều đó thì cần có sự phối kết hợp thường xuyên, mạnh mẽ và khăng khít giữa gia đình, nhà trường và đặc biệt là phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa phụ huynh và học sinh để các em có môi trường giáo dục tốt nhất khi ở trường và ở nhà. Khi có được môi trường giáo tốt thì chắ chắn rằng chất lượng giáo dục học sinh sẽ được nâng lên.
1.4. Ý nghĩa của công tác chủ nhiệm
Công tác chủ nhiệm có vai trò đặc biệt trong nhà trường, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Còn giáo viên chủ nhiệm là người có ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học sinh về nhiều mặt, bởi vì họ là người quản lí toàn diện học sinh của lớp mình phụ trách, là cầu nối giữa BGH với các tổ chức
trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp. Họ không chỉ là nhà chuyên môn vững vàng mà còn là nhà tâm lí giỏi để hiểu học sinh, để xử lí các các tình huống rắc rối một cách khéo léo, tế nhị, từ đó giúp việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
Chất lượng giáo dục lớp chủ nhiệm phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối hợp của người giáo viên với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường như gia đình, cộng đồng. Dựa vào đặc điểm của học sinh lớp chủ nhiệm, gia đình học sinh mà GVCN có các biện pháp phối hợp khéo léo, linh hoạt. Hơn nữa, GVCN còn là người chia sẻ, bồi dưỡng kiến thức lí luận giáo dục cho các bậc cha mẹ khi cần thiết.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thuận lợi
Trường THPT Phạm Hồng Thái là một trong bốn trường công lập đóng trên địa bàn huyện Hưng Nguyên. Tính đến năm học 2021 -2022, trường đã có 43 năm xây dựng trưởng thành và phát triển. Trong 43 năm qua trường đã đạt được nhiều thành công trong việc đào tạo và giáo dục học sinh. Có được những thành tích như ngày hôm nay là nhờ sự chỉ đạo sát sao của sở GD&ĐT Nghệ An, sự chỉ đạo kịp thời, chính xác của chi uỷ Đảng và BGH nhà trường qua các thời kì.
Đội ngũ GV trong nhà trường được đào tạo bài bản, liên tục được nâng cao về trình độ, yêu nghề và nhiệt tình trong công tác. Trong đó nhà trường đã chọn ra được đội ngũ GVCN dày dạn kinh nghiệm, hết mình với học sinh. GVCN thường xuyên bám trường, bám lớp, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ với mọi đối tượng học sinh trong lớp. Nhờ sự dìu dắt chỉ bảo ân cần đó mà có nhiều học sinh cá biệt đã vươn lên trở thành con ngoan, trò giỏi.
Ngày nay điều kiện kinh tế ngày một cải thiện nên nhiều phụ huynh có sự đầu tư, quan tâm về mọi mặt cho việc học tập, giáo dục con em của mình. Một số phụ huynh tích cực phối hợp với GVCN để nâng cao kết quả học tập và rèn luyện của các em.
Thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay sẽ có tạo điều kiện thuận lợi cho GVCN dễ dàng tìm kiếm, lựa chọn các phương thức kết nối phụ huynh – học sinh. Sự kết nối đó sẽ giúp GVCN thành công hơn trong việc giáo dục học sinh.
2.2. Khó khăn
Ngôi trường chúng tôi đang công tác đóng ở địa bàn nông thôn, phần lớn đời sống của người dân còn nghèo, kinh tế gặp nhiều khó khăn, đa phần phụ huynh làm nghề nông nên sự đầu tư về giáo dục còn hạn chế. Mặt khác, chất lượng đầu vào của trường thấp so với các trường trong huyện, hơn nữa, học sinh phân bố rộng khắp trên địa bàn các xã (7 xã) nên rất khó khăn trong công tác giáo dục, nâng cao chất lượng.
Thực tế vẫn còn rất nhiều gia đình ít quan tâm đến việc học tập của con cái. Vì gánh nặng kinh tế nên cha mẹ đi làm ăn xa, hoặc do hoàn cảnh đặc biệt làm cho họ không có nhiều thời gian trao đổi, chia sẻ những khó khăn hoặc định hướng nghề nghiệp về tương lai cùng các em. Điều đó tạo cho các em cảm giác không được cha mẹ quan tâm, gây tâm lí chán nản trong học tập và rèn luyện ở các em.
Cũng có một số phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhưng do trình độ dân trí còn hạn chế nên chưa nhận thức đúng về mục tiêu giáo dục, thiếu kiến thức, thiếu kĩ năng trong việc quản lí, giáo dục con em.Vì thế, phụ huynh có biện pháp giáo dục con cái không phù hợp, dẫn đến không hiệu quả hoặc phản giáo dục.
Không ít phụ huynh chủ quan, vô tâm, buông lỏng việc giáo dục con cái, giao phó hết cho nhà trường quản lý, lơ là việc liên hệ, phối hợp với nhà trường và đùn đẩy hết trách nhiệm giáo dục con cái cho nhà trường, dẫn đến các trường hợp các em có những suy nghĩ chưa chín chắn và hành động thiếu kiểm soát gây tổn hại cho bản thân, bạn bè, thầy cô, nhà trường và cả gia đình.
Mặt trái của xã hội hiện đại (mạng xã hội, văn hoá độc hại, trò chơi điện tử, lối sống thực dụng) cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển nhân cách học sinh. Điều này tác động không nhỏ đến tâm lí, tính cách và cách hành xử của học sinh, dẫn tới các em có hành vi sai phạm, bỏ học, chơi điện tử, hành vi bạo lực học đường, vi phạm pháp luật giao thông.
Một phần do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, một phần do tác động của mạng xã hội, các em ngày càng thu mình lại, ít giao tiếp, chia sẻ với phụ huynh về những tâm tư, nguyện vọng của mình. Thậm chí một số phụ huynh thường xuyên dành thời gian giao tiếp trên mạng xã hội, chưa giành thời gian phù hợp nên đã tạo ra những hệ luỵ, ảnh hưởng tới việc giáo dục các em, thậm chí là sự thành công ở tương lai của con.
Chính vì vậy, việc giáo dục học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Hơn bao giờ hết, GVCN phải tìm ra các giải pháp làm sao cho phụ huynh thấy rõ được vai trò và trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục con em mình. GVCN trở thành “ chiếc cầu nối” giữa gia đình và nhà trường, giữa phụ huynh và học sinh.
2.3. Thực trạng lớp chủ nhiệm trước khi áp dụng giải pháp
Trong quá trình làm chủ nhiệm ở trường THPT Phạm Hồng Thái, chúng tôi luôn được sự quan tâm chỉ bảo tận tình của BGH nhà trường, sự phối hợp của các giáo viên bộ môn và sự ủng hộ của học sinh. Vì vậy, chúng tôi đã đạt được một số thành công trong công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong giáo dục học sinh như một số em đôi lúc vẫn còn có hành vi chưa chuẩn mực, một vài phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc giáo dục con em mình ở trường và trong gia đình.
Sau đây là bảng khảo sát học sinh các lớp chủ nhiệm trước khi chúng tôi áp dụng các giải pháp:
Lớp
Năm học HỌC LỰC HẠNH KIỂM Xếp hạng thi đua
Giỏi
Khá TB,
Yếu
Tốt
Khá TB,
Yếu
11C1 (39 HS) 2020 –
202122983720
6/18
5,1% 74,4% 20,5% 94,9% 5.1% 0%
11C2 (39 HS) 2020 –
2021111273063
17/18
2,6% 28,2% 69.2% 76.9% 15,4% 7,7%
Dựa trên thông tin thu thập từ học bạ, sổ chủ nhiệm và phiếu điều tra từ học sinh chúng tôi thu được kết quả cụ thể từ năm học trước như sau:
02 trường hợp bỏ học: Hồ Thị Thuỳ Trang, Nguyễn Quỳnh Trang
04 trường hợp trốn học : Hoàng Minh Chiến, Ngô Văn Sơn, Nguyễn Thị Mai Linh, Dương Thị Hoài Thu
03 trường hợp có hành vi bạo lực học đường: Phạm Quang Hùng, Nguyễn Bảo Cường, Nguyễn Văn Quang
03 trường hợp có hiện tượng nghiện game: Ngô Đình Chương, Đoàn Ngọc Giáp, Trần Văn Hoàng .
Ở cả 2 lớp đều có biểu hiện chia bè kéo cánh chia rẽ thành các nhóm nhỏ trong lớp.
Từ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên, chúng tôi đã trăn trở, tìm tòi và mạnh dạn áp dụng một số giải pháp để gắn kết phụ huynh và học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm.
CHƯƠNG II.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM ĐỂ GẮN KẾT PHỤ HUYNH – HỌC SINH GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
1. Biện pháp 1: Khảo sát mối quan hệ giữa phụ huynh và học sinh
Để biện pháp gắn kết phụ huynh và học sinh thực sự có hiệu quả, GVCN phải là người hiểu rõ hoàn cảnh gia đình của từng học sinh, cũng như đặc điểm tâm lí của học sinh và tình trạng mối quan hệ giữa giữa hai đối tượng trên. Có như thế giáo viên mới có thể đề ra cách thức, biện pháp phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục. Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa phụ huynh và học sinh phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, có thể chia làm nhiều giai đoạn để có những biện pháp tác động giáo dục phù hợp.
Trước hết, GVCN phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình thông qua hồ sơ tóm tắt của các em (Phụ lục 1). Sau khi đã nắm bắt được tóm tắt sơ yếu lí lịch của học sinh, chúng tôi phân loại học sinh của mình theo các nội dung mà mình định tìm hiểu.
Tiếp theo, GVCN sẽ khảo sát về sự chia sẻ, gắn kết giữa học sinh với phụ huynh (Phụ lục 2). Từ kết quả đó, chúng tôi đã thống kê theo mức độ sau:
Tiêu chí 12C1 12C2
Số HS Tl (%) Số HS Tl (%)
Học sinh giao tiếp với phụ huynh dưới 30 phút / ngày
4/40
10,0 5/38 13,2
Học sinh giao tiếp với phụ huynh từ 30 đến dưới 60 phút/ngày
20
50,0 20/38 52,6
Học sinh giao tiếp với phụ huynh trên 60 phút/ngày
16/40
40,0 13/38 34,2
Học sinh không tin tưởng phụ huynh 10/40 25,0 11/38 28,9
Học sinh tin tưởng và chia sẻ mọi vấn đề với phụ huynh
5
12,5 5/38 13,2
Phụ huynh không tin tưởng con em mình
8/40
20,0
9/38
23,7
Phụ huynh chưa thực sự tin tưởng con em mình
20/40
50,0
19/38
50,0
Phụ huynh luôn tin tưởng con em mình 12/40 30,0 10/38 26,3
Qua khảo sát và phân tích mối quan giữa phụ huynh và học sinh, chúng tôi nhận thấy rằng phần lớn phụ huynh chưa dành đủ thời gian và niềm tin cho con cái của mình và học sinh cũng chưa tin tưởng phụ huynh để chia sẻ các vấn đề mà mình gặp phải trong học tập và cuộc sống.
Trên cơ sở số liệu tình hình học sinh và mối quan hệ giữa phụ huynh – học sinh, chúng tôi lập dự kiến kế hoạch và biện pháp để phụ huynh hiểu rõ trách nhiệm và vai trò của mình trong vấn đề giáo dục của con em mình.Từ đó, phụ huynh và học sinh có sự thấu hiểu và phối hợp cùng với GVCN, nhà trường để giáo dục con em mình.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]