SKKN Một vài kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường gặp trong công tác chủ nhiệm
- Mã tài liệu: BM0163 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | 9 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 489 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Bùi Thị Thanh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS Lê Đình Chinh |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Bùi Thị Thanh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS Lê Đình Chinh |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một vài kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường gặp trong công tác chủ nhiệm “ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Ngay từ khi nhận lớp GVCN cần nắm được lý lịch của học sinh, trao đổi với thầy (cô ) GVCN lớp ở năm học trước để hiểu thêm về từng hoàn cảnh học sinh.
– Phân loại học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu và học sinh ngoan, chưa ngoan để có sự sắp xếp chỗ ngồi hợp lý. Tránh tạo điều kiện những em hay nói chuyện, hay nghịch ngồi gần nhau gây ảnh hưởng những em khác.
– Đầu năm khi họp phụ huynh trao đổi thẳng thắn về tình hình lớp, tiếp thu ý kiến của phụ huynh để đưa ra cách giải quyết tình huống có hiệu quả.
– Thông báo cho phụ huynh về việc sử dụng phiếu liên lạc hàng tuần để phụ huynh tiện theo dõi.
– Chọn ra đội ngũ ban cán sự lớp, tổ trưởng, tổ phó có tinh thần trách nhiệm cao.
– Tạo điều kiện cho những em có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn bằng cách trích quỹ lớp, hoặc đưa lên liên đội để đề nghị được tặng quần áo, sách vở hay được mượn xe đạp…
– Có mối liên hệ chặt chẽ giữa GVCN và cha mẹ học sinh.
– Có hình thức xử lí kịp thời với những em vi phạm nội quy.
– Thường xuyên lắng nghe ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường, Tổng phụ trách Đội, Ban nề nếp, giáo viên bộ môn về tình hình lớp
– Xây dựng tiết sinh hoạt lớp có nội dung phong phú để tránh suy nghĩ của các em đó là: “Giờ sinh hoạt lớp là giờ xử tội ” mà thay vào đó là tổ chức các trò chơi, lồng ghép nội dung giáo dục.
– Luôn sâu sát, lắng nghe và phân tích cho các em về việc làm của bản thân dù tốt, dù xấu để phát huy hay sửa chữa.
– Động viên kịp thời cho dù đó là tiến bộ nhỏ để các em có động lực cố gắng hơn trong học tập và tu dưỡng đạo đức.
– Trong các hoạt động phong trào mà lớp tham gia GVCN cũng nên “hòa mình “vào với các em để các em cảm thấy được quan tâm nên sẽ cố gắng và sẽ đạt kết quả cao.
Mô tả sản phẩm
I. Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài.
Nghị quyết số 29/NQ-TW khóa XI một lần nữa đã nhấn mạnh luận điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu ”, coi đó là sự phát triển cho tầm nhìn chính sách, tư duy chiến lược và hành động kế hoạch để triển khai Nghị quyết vào thực tiễn có hiệu quả. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở các quốc gia trên thế giới đề coi giáo dục là quốc sách.
Nhân dân ta vẫn có câu “Giáo tử anh hài ” ( Chăm sóc con người ngay từ khi còn trong bụng mẹ). Ngày nay sự “ trồng người” không chỉ ở nước ta mà ở các nước trên thế giới cũng đều gặp khó khăn chung vì khủng hoảng về đạo đức, lối sống, thay thế nét đẹp của nền văn hóa vốn có bằng thị hiếu thẩm mĩ mới. Chính vì vậy, muốn “ đào tạo” được một công dân tốt trước hết là phải có được sự kết hợp giáo dục từ gia đình nhà trường và xã hội. Trong Nhà trường, người giáo viên là người giữ vai trò quyết định trong việc dạy – và việc học của người học sinh bởi giáo viên là người trực tiếp hướng dẫn học sinh trong các hoạt động cụ thể. Hiện nay Bộ giáo dục Đào tạo đã và đang triển khai “Xây dựng trường học thân thiệnhọc sinh tích cực” đó cũng chính là khẩu hiệu của trường THCS … trong những năm vừa qua.
Người giáo viên là người được đào tạo bài bản về tri thức để hướng dẫn học sinh lĩnh hội được kiến thức và người giáo viên cũng là người hoàn thiện về nhân cách để giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường. Trong việc hình thành nhân cách, giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh thì người quan trọng ngoài cha mẹ đó là giáo viên và có vai trò quan trọng, nhất là giáo viên chủ nhiệm. Tuy đã được đào tạo bài bản nhưng mỗi giáo viên có năng khiếu có sở trường riêng. Về chuyên môn phần lớn đáp ứng nhu cầu giảng dạy, nhưng về kỹ năng quản lý giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm thì mỗi người có một cách giáo dục học sinh riêng.
Từ khi ra trường đến nay ngoài tham gia giảng dạy bộ môn Hóa trong Nhà trường tôi còn được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp. Đặc biệt, trong năm học … tôi được Ban giám hiệu phân công làm công tác chủ nhiệm một lớp có nhiều học sinh “cá biệt ”. Trong quá trình công tác tôi cũng đã giải quyết được một số tình huống xảy ra ở học sinh. Từ kinh nghiệm của bản thân, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Một vài kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường gặp trong công tác chủ nhiệm ”. Khi xây dựng đề tài này tôi hi vọng được chia sẻ một số kinh nghệm ít ỏi của mình trong công tác chủ nhiệm lớp có nhiều học sinh cá biệt với các thầy cô khác.
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu:
Trên cơ sở trải nghiệm thực tiễn và tham gia công tác là giáo viên chủ nhiệm lớp là người trực tiếp quản lí học sinh, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục đạo đức cho các em. Nghiên cứu đề tài “Một vài kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường gặp trong công tác chủ nhiệm” tôi muốn hướng đến mục tiêu nghiên cứu phương án xử lí các trường hợp HS vi phạm bội quy nhà trường. Giải quyết các vấn đề giáo dục đạo đức theo định hướng của khoa học giáo dục. Từ đó giúp các em hình thành, phát triển nhân cách tốt, hoàn thành nhiệm vụ giáo dục. Bản thân tôi đã giúp duy trì sĩ số trong lớp, giúp các em hình thành nhân cách, giúp các em hiểu được vai trò quan trọng của việc học, kết quả học tập của lớp đạt được kết quả cao hơn so với năm học trước.
Nhiệm vụ:
– Qua việc trải nghiệm là giáo viên chủ nhiệm, bản thân rút kinh nghiệm để giải quyết những tình huống cụ thể như thế nào nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao đạo đức của các em.
– Bản thân đã rút ra được những bài học kinh nghiệm gì từ việc trải nghiệm trong công tác chủ nhiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu.
– Nghiên cứu trong quá trình chủ nhiệm lớp (dẫn chứng năm học …) ở trường THCS ….
– Nghiên cứu lý luận về công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Trong đề tài này tôi chỉ dẫn ra một số tình huống sư phạm tôi đã gặp phải trong năm học làm công tác chủ nhiệm lớp học: Lớp 9A3 trường THCS … năm học ….
5. Phương pháp nghiên cứu.
– Phương pháp thu thập và xử lí thông tin: Thu thập những thông tin về vai trò của người GVCN lớp trong việc giải quyết các tình huống.
– Thu thập thông tin, lý lịch cụ thể của các em học sinh trong lớp chủ nhiệm.
– Quan sát hoạt động học tập và sinh hoạt tập thể của học sinh.
– Trao đổi trò chuyện với giáo viên bộ môn, học sinh, tình cảm bạn bè và cha mẹ học sinh.
– Ghi chép những việc tôi đã làm được và mang lại kết quả khả quan trong quá trình làm công tác chủ nhiệm.
– Thu nhập những số liệu cụ thể để làm minh chứng cho kết quả trong quá trình công tác.
II. Phần nội dung:
1. Cơ sở lí luận.
a. Khái niệm GVCN lớp:
– GVCN lớp là người thực hiện nhiệm vụ quản lý lớp học, là nhân vật chủ chốt, là người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể lớp vững mạnh. GVCN còn là cầu nối giữa Nhà trường với gia đình.
– GVCN là người thứ hai sau gia đình kịp thời nắm rõ tâm tư, hiểu được tâm lý của các em, là chỗ dựa vững chắc để các em được giãi bày tâm sự từ đó giúp đỡ các em vượt qua những khó khăn.
Tóm lại, theo tôi GVCN là nhân tố quyết định, lực lượng quan trọng góp phần rất to lớn trong việc giáo dục HS. Vì vậy ngoài kiến thức chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, tâm huyết và tình thương, GVCN phải khéo léo và có lòng kiên trì.
b. Vai trò của GVCN
Đối tượng học sinh lớp tôi chủ nhiệm là ở bậc THCS. Ở lứa tuổi này nhân cách các em chưa được hoàn thiện và trong suy nghĩ của các em là luôn chứng tỏ mình là người lớn. Chính vì vậy, khi một vấn đề xảy ra các em tự giải quyết theo hướng của mình, có trường hợp không nghe lời thầy cô, cha mẹ, người lớn tuổi dẫn đến trở thành học sinh cá biệt. Do đó vai trò của người giáo viên là:
– Thay mặt hiệu trưởng quản lý và giáo dục toàn diện học sinh trong một lớp học. Việc quản lý và giáo dục học sinh thống nhất mật thiết với nhau. Để giáo dục tốt phải quản lý tốt, quản lý tốt sẽ cho kết quả giáo dục tốt hơn. Thực tế cho thấy: Nếu không thống nhất được hai mặt này thì kết quả giáo dục cho từng tập thể hay từng cá nhân học sinh đều không mang lại hiệu quả mong muốn.
– GVCN là người thay mặt và đại diện cho quyền lợi chính đáng của tập thể học sinh, giải quyết một số vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các em.
– GVCN cố vấn hoạt động tập thể của lớp, phát triển phong trào tập thể lớp ngày càng vững mạnh.
– GVCN đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, phối hợp và thống nhất các lực lượng tác động tới việc giáo dục học sinh.
Vì vậy, để thực hiện tốt những vai trò trên của GVCN thì bản thân mỗi người cần phải nắm rõ hoàn cảnh, hiểu được cá tính của từng em học sinh. Và trong mỗi trường hợp cụ thể đưa ra cách giải quyết tình huống thật đúng đắn để học sinh “ tâm phục khẩu phục” mình. Có như vậy, mới trở thành chỗ dựa vững chắc và dìu
dắt các em ngày càng tiến bộ về mọi mặt cũng như hạn chế tình trạng chán học dẫn đến suy giảm về sĩ số..
c. Tình huống sư phạm
Tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, tìm cách giải quyết.
Trong quá trình giáo dục nảy sinh vô vàn những tình huống và gọi đó là tình huống sư phạm. Tình huống sư phạm có thể là xảy ra giữa học sinh với học sinh, hay giữa học sinh với giáo viên… và xảy ra ở trong Nhà trường hay trong cộng đồng. Và dù xảy ra ở đâu hay xảy ra như thế nào, với ai thì những tình huống ấy đều rất bất ngờ. Và người GVCN sẽ là người trực tiếp cùng với các bộ phận giáo dục khác giải quyết tình huống ấy. Nhưng để giải quyết tình huống thì không có một tàiliệu hay sách vở nào hướng dẫn cho người GVCN thực hiện điều đó cả mà chỉ bằng kinh nghiệm, kỹ năng họ đưa ra cách giải quyết vấn đề. Vì tình huống sư phạm nảy sinh từ thực tế dạy học nên trong các trường đào tạo sư phạm chỉ nêu lý thuyết và hướng giải quyết chung chứ không đặt ra tình huống cụ thể. Nói như vậy có nghĩa là mỗi GVCN sẽ có cách để giải quyết một vấn đề theo hướng khác nhau.…Vì thế, “Tình huống sư phạm là những câu chuyện ẩn chứa trong mình những thông điệp. Đó không phải là những câu chuyện đơn thuần mà là những câu chuyện để giáo dục”.
d. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở Ở lứa tuổi này các hoạt động thay đổi nhiều về:
+ Tri giác: Các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp các sự vật, hiên tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, cơ trình tự và hoàn thiện hơn.
+ Trí nhớ của thiếu niên cũng được thay đổi về chất: Đặc điểm cơ bản của trí nhớ ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chấtchủ định, năng lực ghi nhớ có chủ định được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao.
Học sinh Trung học Cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ. Các em có những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa, phân loại nhằm ghi nhớ tài liệu. Kỹ năng nắm vững phương tiện ghi nhớ của thiếu niên được phát triển ở mức độ cao, các em bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Các em thường phản đối các yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng từng câu, từng chữ có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình.
+ Tư duy :
Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở có những biến đổi cơ bản:
– Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh là một đặc điểm cơ bản của hoạt động tư duy ở thiếu niên. Nhưng thành phần của tư duy hình tượng – cụ thể vẫn được tiếp tục phát triển, nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy.
– Các em hiểu các dấu hiệu bản chất của đối tượng nhưng không phải bao giờ cũng phân biệt được những dấu hiệu đó trong mọi trường hợp. Khi nắm khái niệm các em có khi thu hẹp hoặc mở rộng khái niệm không đúng mức.
– Ở tuổi thiếu niên, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, các em biết lập luận giải quyết vấn đề một cách có căn cứ. Các em không dễ tin như lúc nhỏ, nhất là ở cuối tuổi này, các em đã biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được, những kinh nghiệm riêng của mình để minh họa kiến thức.
2. Thực trạng của vấn đề.
Do đặc thù địa phương có cả thôn, buôn cả người Kinh và người dân tộc thiểu số nên lượng học sinh vào học tại trường có một số đối tượng không ngang bằng nhau về học lực và hạnh kiểm, có một số học sinh không màng đến việc học mà chỉ về xếp lớp, với hình thức đại trà, số lượng học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số tương đối nhiều… Sự giao thoa văn hóa giữa người kinh và người Ê đê tạo điều kiện để tâm lí muốn thể hiện mình, tập làm người lớn của HS THCS phát triển. Về phía gia đình, có một số gia đình vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên phải gửi con cho ông bà, người thân để đi làm ăn xa ở Sài Gòn, Đồng Nai… vì vậy các em được “thả lỏng ” nên dễ bị sa ngã. Bố mẹ không dạy bảo con ngay từ nhỏ trong gia đình, không có mặt bên cạnh con trong thời gian chuyển từ trả con sang người lớn. Các em dễ mang tâm lí bị bỏ rơi hoặc không ai quản lí nên sa ngã. Về học sinh sau một thời gian các em nắm được đặc điểm, tính cách của giáo viên một số em bắt đầu có sự phân biệt qua cách giảng dạy kiểm tra của từng giáo viên. Từ đó những học sinh này có những biểu hiện học tập đối phó. Dần dần sa sút về học lực lẫn hạnh kiểm do nhiều tác động dẫn đến những tình trạng như: thường xuyên không học bài, không làm bài tập, bỏ học cúp tiết, mê chơi game, không chấp hành nội quy trường học, quậy phá trong giờ học… gọi chung là “học sinh cá biệt ”, từ đó dẫn đến những tiêu cực khác. Hoặc do trong quá trình học tập do tiếp cận với cuộc sống không lành mạnh dẫn đến việc các em bị sa ngã. Những đối tượng nêu trên mặc dù không nhiều nhưng đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm đây là vấn đề không ít khó khăn trong công tác quản lý lớp, nếu làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến học sinh khác, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chung của nhà trường. Hướng giải quyết những tình huống sư phạm quá khắt khe và áp đặt sẽ khó phù hợp vì độ tuổi học sinh THCS khá đặc biệt- thay đổi nhiều về tâm sinh lý. Vì vậy, giáo viên ngoài kiến thức chuyên môn giỏi đòi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ nhiệm, kịp thời giáo dục học sinh cá biệt, đưa các học sinh nghỉ học trở lại trường lớp, tạo môi trường giáo dục thân thiện, tích cực, đầy ý nghĩa.
Năm … tôi được phân công chủ nhiệm lớp 9A3 nhưng qua tìm hiểu ở năm học trước (… ) tôi nhận thấy lớp khá nhiều học sinh cá biệt và học lực khá yếu.
Về học lực Giỏi: 0 học sinh; Khá: 7 học sinh; Trung bình: 8 học sinh ; Yếu:5 học sinh ; Kém: 3 học sinh.
Về hạnh kiểm Tốt: 15 ; Khá: 5; Trung bình: 3; Yếu: 0 học sinh. Tỷ lệ học sinh bỏ học: 3 học sinh.
Về phía học sinh trong lớp một trong những yếu tố sau làm ảnh hưởng đến kết quả học tập cũng như rèn luyện hạnh kiểm của các em dẫn đến việc các em trở thành học sinh cá biệt:
– Một số em vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên bố mẹ phải đi làm ăn xa, gửi các em cho ông bà, họ hàng nuôi dưỡng.
– Có những em bố mẹ li dị dẫn đến không có điều kiện quan tâm chăm sóc con cái.
– Những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các em phải nghỉ học thường xuyên để đi làm thuê kiếm tiền dẫn đến kết quả học tập sa sút, chán học.
– Một số gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số nhận thức còn hạn chế muốn con nghỉ học sớm lập gia đình dẫn đến các em chán học và trở thành học sinh cá biệt.
– Một bộ phận các em đua đòi theo bạn bè, a dua theo những thói hư, tật xấu.
– Có em gia đình khá giả nhưng bố mẹ lo làm ăn, chỉ biết dùng tiền để giáo dục con.
– Về phía GVCN lớp: Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp tôi gặp những tình huống sau đây: Học sinh chán học, lười học, bỏ học đi chơi; học sinh nghiện game; học sinh đánh nhau vì nhiều nguyên nhân; học sinh đua đòi bắt bố mẹ mua xe máy; học sinh không chấp hành nội quy của lớp, của nhà trường; học sinh tham gia vào các buổi lao động không nhiệt tình; học sinh bỏ nhà đi… Đứng trước mỗi vấn đề người GVCN cần phải thật sáng suốt để giải quyết vấn đề có như vậy chúng ta mới giành được niềm tin từ phía học sinh và phụ huynh, và khi đã có niềm tin chúng ta sẽ thành công trong việc giáo dục các em. Và để làm tốt những việc ấy thì bản thân tôi thiết nghĩ bản thân cần phải:
+ Nhìn nhận vấn đề từ nhiều phía khác nhau, tránh những suy nghĩ áp đặt.
+ Cởi mở, chân thành với các em cho dù khi các em có vi phạm khuyết điểm cũng kiềm chế bản thân không la mắng, trách móc nhưng phải giữ thái độ nghiêm khắc.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]