SKKN Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học lớp 5 thông qua phương pháp Bàn tay nặn bột (W+PPT)

Giá:
200.000
Môn: Khoa học
Lớp: Lớp 5
Bộ sách:
Lượt xem: 222
Lượt tải: 1
Số trang: 13
Tác giả: Bùi Thị Minh Ngọc
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Cừ
Năm viết: 2023-2024
Số trang: 13
Tác giả: Bùi Thị Minh Ngọc
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Cừ
Năm viết: 2023-2024

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học lớp 5 thông qua phương pháp Bàn tay nặn bột (W+PPT)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Bước 1: Tình huống xuất phát và nêu vấn đề
Bước 2: Quan điểm ban đầu của học sinh
Bước 3: Câu hỏi đề xuất
Bước 4: Làm thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết
Bước 5: Kết luận

Mô tả sản phẩm

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP

  1. Tên biện pháp: Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học lớp 5 thông qua phương pháp Bàn tay nặn bột
  2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp: Môn Khoa học
  3. Phạm vi áp dụng biện pháp: Lớp 5… Trường Tiểu học…
  4. Thời gian áp dụng biện pháp: 2022 – 2023
  5. Tác giả:…

II. MÔ TẢ BIỆN PHÁP

1. Tình trạng giải pháp đã biết

Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học. Mục tiêu của môn khoa học lớp 4; 5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự trao đổi chất; sự sinh sản của động vật, thực vật, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kĩ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.

Mặc dù Khoa học lớp 5 là môn học quan trọng, tuy nhiên phương pháp giảng dạy môn còn nhiều bất cập dẫn đến chất lượng học tập môn của các em học sinh lớp 5 chưa cao. Thực tế cho thấy, một số học sinh thiếu sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết học và chưa tích cực tham gia các hoạt động trong giờ học khoa học. Khả năng tập trung của học sinh chưa cao, ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như còn mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xáo thực hành còn vụng về, lúng túng. Khả năng ghi chép của các em chưa tốt, các em chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích của thí nghiệm còn kém.

Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tôi nhận thấy phương pháp “Bàn tay nặn bột” áp dụng hiệu quả nhất ở môn khoa học bởi vì: “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Học sinh được tập làm các nhà khoa học tự mình nghiên cứu và chiếm lĩnh được các kiến thức, phương pháp này giúp các em ghi nhớ kiến thức lâu và sâu hơn, các em hiểu vấn đề rõ ràng hơn và không bị mơ hồ. Song phương pháp này còn mới, việc vận dụng đối với giáo viên chưa quen, còn lúng túng, giáo viên chưa hiểu hết phương pháp “Bàn tay nặn bột” và phương pháp này sử dụng hiệu quả trong môn nào, bài nào. Ngoài ra việc vận dụng phương “Bàn tay nặn bột” vào dạy khoa học lớp 5 còn giúp bạn bè đồng nghiệp hiểu rõ về bản chất, cách thức dạy theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” để dần dần áp dụng rộng hơn với các môn học khác.

Vì vậy tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học lớp 5 thông qua phương pháp Bàn tay nặn bột” để khẳng định những kết quả đạt được khi vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học, đồng thời góp thêm một chút kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp này.

2. Nội dung biện pháp

Tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Giáo viên và học sinh tiến hành theo 5 bước sau đây: 

Bước 1: Tình huống xuất phát và nêu vấn đề

Bước này là sự xuất phát, là sự khởi điểm của một tiết học, có tác dụng kích thích sự tò mò, muốn tìm hiểu khám phá, gây hứng thú học tập, đồng thời đặt ra nhiệm vụ cho học sinh dưới hình thức: Giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh đi tìm câu trả lời. Bằng khả năng phán đoán, suy luận cùng các việc huy động vốn sống, vốn kinh nghiệm, các cá nhân học sinh đưa ra những hiểu biết ban đầu của mình về vấn đề mà giáo viên đặt ra. Bước này nên để cho học sinh làm cá nhân vì những lý do sau đây:

      – Đối với giáo viên: 

      + Chuẩn bị tình huống xuất phát để tung ra cho học sinh

        + Biết được mức độ nhận thức của từng cá nhân để tác động đến từng đối tượng học sinh một cách thích hợp ngay trong tiết học.

+ Kết hợp các giờ học trước và giờ học sau để làm phương tiện đánh giá sự tiến bộ của từng học sinh.

– Đối với học sinh

+ Học sinh nào cũng phải tiến hành suy nghĩ để ghi chép những hiểu biết của mình về bài học rồi ghi những suy nghĩ đó vào vở thí nghiệm. Những hiểu biết cá nhân có tác dụng làm cho các em ý thức được rằng cần phải tiến hành nghiên cứu để kiểm tra xem đúng hay sai. Đưa những hiểu biết của mình trước nhóm để xem các bạn đánh giá như thế nào về ý kiến của mình, qua đó diễn ra sự tranh luận trong nhóm.

+ Biểu tượng ban đầu giúp các em so sánh và đối chiếu với biểu tượng mới (biểu tượng chuẩn) sau khi tiến hành nghiên cứu. Biểu tượng ban đầu dù chỉ một phần rất ít nhưng cũng làm cho các em vui vì thấy rằng mình có đóng góp một phần trong bài học. Vì vậy tạo cho các em hứng thú học tập hơn.

Sau đây, tôi xin nêu ra một số câu hỏi nêu vấn đề như sau:

Khoa học 5:

+ Bài 40: “Sự sinh sản của ruồi” – Hãy nêu hiểu biết của em về sự sinh sản của ruồi?

+ Bài 8: “Vệ sinh tuổi dậy thì” – Chúng ta cần làm gì để vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì?

+ Bài 26: “Đá vôi” – Theo em đá vôi có những tính chất gì?

+ Bài 37: “Dung dịch” –  Cho một ít muối vào nước thì hiện tượng gì sẽ xảy ra? 

+ Bài 49: “Sự sinh sản ở người” – Em bé được hình thành như thế nào ?

+ Bài 51: “Cơ quan sinh sản của thực vật có hoa”- Em biết gì về nhị và nhụy của hoa; hoa có cả nhị và nhụy ? 

+ Bài 52: “Sự sinh sản của thực vật có hoa” – Em biết gì về sự thụ phấn, sự thụ tinh ? Sự hình thành hạt và quả của thực vật có hoa diễn ra như thế nào ?

+ Bài 53: “Cây con mọc lên từ hạt” – Cây đậu phộng mọc lên từ đâu ? Trong hạt đậu có gì?

+ Bài 56: “Sự sinh sản của côn trùng”- Em biết gì về sự sinh sản của ruồi và gián, đặc điểm chung về sự sinh sản của hai con vật này là gì, biện pháp tiêu diệt chúng ra sao ? 

+ Bài 57: “Sự sinh sản của ếch”: – Ếch đẻ trứng hay đẻ con? Nòng nọc sống ở đâu ? Khi lớn nòng nọc mọc chân nào trước, chân nào sau ? Ếch sống ở đâu ? Ếch khác nòng nọc ở điểm nào ?

+ Bài 58: “Sự sinh sản và nuôi con của chim” – So sánh, tìm ra sự khác nhau giữa các quả trứng ở hình 2 ? Bạn thấy bộ phận nào của con gà trong các hình 2b, 2c, 2d ? Theo bạn, quả trứng hình 2b và 2c, quả nào có thời gian ấp lâu hơn?

     Yêu cầu học sinh suy nghĩ và ghi những dự đoán của mình hoặc của nhóm vào phiếu.

      Muốn đưa tình huống xuất phát gây hứng thú cho học sinh thì đòi hỏi người giáo viên phải lựa chọn thời điểm đưa ra tình huống phù hợp với tiết dạy (thường là đầu tiết học, sau khi giới thiệu bài, hoạt động) hoặc thông qua các trò chơi. Giáo viên cần lựa chọn câu hỏi phù hợp thường có nội dung gắn liền với thực tiễn đời sống, phần đầu nội dung của câu hỏi thường thì các em đã biết qua kinh nghiệm thực tế còn phần sau các em chưa biết hoặc biết nhưng chưa rõ. Từ đó các em có nhu cầu khám phá, tò mò và phải tìm mọi cách để biết.

        Ví dụ: Bài 53 “Cây con mọc lên từ hạt”

        Tình huống xuất phát: GV cho HS quan sát vật thực (cây đậu) và hỏi: Đây là cây gì ? Cây đậu phộng mọc lên từ đâu ? Trong hạt đậu có gì ?

+ Bài 57: “Sự sinh sản của ếch”: 

      Tình huống xuất phát. GV đưa câu hỏi gợi mở: Ếch đẻ trứng hay đẻ con? Nòng nọc sống ở đâu ? Khi lớn nòng nọc mọc chân nào trước, chân nào sau ? Ếch sống ở đâu ? Ếch khác nòng nọc ở điểm nào ?

Bước 2: Quan điểm ban đầu của học sinh

Thảo luận nhóm để đưa ra giả thiết của nhóm. 

Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân riêng, mỗi em có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy. Rồi từ đó giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó cho học sinh đặt câu hỏi cho sự khác nhau đó.

Sau khi học sinh đã đưa ra được giả thiết cá nhân, giáo viên cho các em tiến hành thảo luận nhóm để thống nhất đưa ra giả thiết chung của nhóm. Việc thảo luận nhóm nhằm mục đích để cho tất cả các học sinh có cơ hội trình bày ý nghĩ của mình trước tập thể. Từ đó biết được quan niệm của mỗi bạn như thế nào, giống hay khác với suy nghĩ của mình, tập thể nhóm đánh giá như thế nào về giải thiết mà mình đưa ra. Điều đó gây ra không khí tranh luận khoa học xung quanh vấn đề đồng ý hay không đồng ý về giả thiết của mỗi thành viên. Các em học được cách bảo vệ quan điểm của mình trước tập thể và rèn luyện kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ nói. 

Nhóm 1: Muối tan đều trong nước và có vị mặn

Nhóm 2: Muối tan trong nước nhưng còn một ít ở đáy cốc

Nhóm 3: Muối tan trong nước và nước sẽ có màu hơi đục……

Học sinh có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, trái ngược nhau tùy theo cách quan sát, sự hiểu biết của học sinh. Càng nhiều ý kiến trái ngược nhau thì sự tò mò, ham hiểu biết và khám phá thực tiễn càng cao. Điều này đóng góp rất lớn vào sự thành công của các bước tiếp theo. Lúc này đòi hỏi người giáo viên phải hết sức bình tĩnh và khéo léo để dẫn dắt các em sang bước học tiếp theo.

Từ những quan điểm trên, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích để tìm ra sự khác nhau cơ bản giữa các nhóm như:

Nhóm 2: Còn một ít muối ở đáy cốc

Nhóm 3: Có màu hơi đục

Bước 3: Câu hỏi đề xuất

Sau khi các nhóm đưa ra tình huống xuất phát, các em nhận biết sự giống nhau và khác nhau của nhóm bạn với nhóm mình, từ đó các em nêu câu hỏi đề xuất, thắc mắc của mình để cùng nhau tìm cách giải quyết là làm thí nghiệm.

Khi học sinh nêu câu hỏi đề xuất, giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay là ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước. Ý đồ của phương pháp “Bàn tay nặn bột” thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được đề xuất khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu.

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán lớp 5.
5
Toán học
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)