SKKN Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp THCS
- Mã tài liệu: BM0162 Copy
Môn: | Chủ nhiệm |
Lớp: | 9 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 784 |
Lượt tải: | 5 |
Số trang: | 22 |
Tác giả: | Đặng Thị Bảo Châu |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS Lương Thế Vinh |
Năm viết: | 2019-2020 |
Số trang: | 22 |
Tác giả: | Đặng Thị Bảo Châu |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | THCS Lương Thế Vinh |
Năm viết: | 2019-2020 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp THCS“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
– Người thầy sử dụng một số phương pháp giáo dục như tâm giáo, khẩu giáo, thân giáo và quan trọng là người thầy cần biết cách truyền cảm hứng học tập cho học trò của mình.
– Giáo viên tìm hiểu đặc điểm chung của lớp và từng học sinh riêng biệt. Bởi lẽ, muốn giáo dục học sinh thì người thầy phải hiểu được học sinh.
– Giáo viên hướng dẫn và khơi dạy mạnh mẽ trong học sinh ước mơ và lý tưởng sống, động cơ học tập đúng đắn
– Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng kế hoạch học tập cụ thể để thực hiện ước mơ, lý tưởng sống. Hướng dẫn học sinh tìm ra phương pháp học tập hiệu quả cho từng môn học.
– Xây dựng môi trường học tập tốt để học sinh rèn luyện và phát huy tính tự giác trong học tập. Giáo viên hướng dẫn các em xây dựng một tập thể lớp đoàn kết, tự quản tích cực, hình thành thói quen tự giác trong học tập. Giáo viên đóng vai trò là người định hướng, hướng dẫn, quản lý.
– Giáo viên phối kết hợp với gia đình, các tổ chức trong nhà trường và xã hội để giáo dục học sinh.
Mô tả sản phẩm
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói rằng học tập là con đường ngắn nhất để con người có được hạnh phúc và thành công. Hiện nay trong nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng cộng nghệ 4.0, thì việc học tập để phát triển bản thân, phát triển đất nước lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng và toàn dân. mục tiêu giáo dục là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tự giác trong học tập là cơ sở, chìa khóa để hình thành cho học sinh sự tự chủ, sống có bản lĩnh, trách nhiệm với bản thân và quê hương đất nước. Góp phần hình thành những phẩm chất và năng lực cốt lõi của con người. Nhưng hiện nay ý thức tự giác trong học tập của một số học sinh chưa tốt. Điều này ảnh hưởng xấu đến bản thân, môi trường giáo dục và chất lượng, hiệu quả của sự nghiệp giáo dục. Vì vậy, tôi đã tìm hiểu và viết sáng kiến “Rèn luyện tính tự giác học tập trong công tác chủ nhiệm lớp cấp Trung học cơ sở” với mong muốn nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm; góp phần thực hiện thành công mục tiêu giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của tính tự giác trong học tập.
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục tính tự giác trong học tập của học sinh trường Trung học cơ sở …..
Đưa ra các giải pháp hiệu quả để rèn luyện, nâng cao ý thức tự giác, năng lực tự chủ cho học sinh trong học tập nhằm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp góp phần thực hiện thành công mục tiêu giáo dục.
Chia sẻ một số ý kiến, giải pháp của bản thân trong công tác chủ nhiệm lớp. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ đồng nghiệp để cùng nhau hoàn thành tốt sứ mệnh trồng người trong thời đại mới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 9B năm học … trường ….
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận.
– Phương pháp điều tra, khảo sát.
– Phương pháp quan sát, trò chuyện với các học sinh, giáo viên bộ môn và phụ huynh học sinh.
– Phương pháp phân tích.
– Phương pháp tổng kết.
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh trường … trong việc học tập và
rèn luyện đạo đức theo nội quy nhà trường.
2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lý luận:
* Tự giác là gì?
Tự giác là làm việc gì cũng tự mình hiểu mà làm, không cần người khác nhắc nhở, đốc thúc. Người tự giác là người hiểu rõ trách nhiệm, vai trò, vị trí và quyền lợi của mình trong gia đình, tổ chức hay cộng đồng xã hội.
Tự giác không phải là kỹ năng bẩm sinh tự nhiên, mà nó đòi hỏi phải có quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện. Như vậy, tự giác là sự kết hợp từ phía bản thân và phía bên ngoài, nó biểu hiện ở nhiều góc độ, trong ý nghĩ, hành động, trong ứng xử với chính mình và với người xung quanh.
Có thể nói, có hai yếu tố quyết định sự tự giác của cá nhân là giáo dục và môi trường xã hội. Tự giác có thể học tập được, nó được hình thành từ trong gia đình, rồi đến nhà trường, cộng đồng xã hội.
* Tự giác trong học tập là gì? Biểu hiện của tự giác trong học tập.
Đối với các em học sinh thì tự giác trong học tập là tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập một cách tốt nhất, tự mình xác định mục đích học tập, xây dựng kế hoạch học tập dựa trên sự hướng dẫn của cha mẹ và thầy cô giáo. Học sinh có ý thức tự giác trong học tập lúc nào cũng chủ động trong nhiệm vụ học tập luôn đúng giờ, luôn hoàn thành kịp thời và tốt nhất công việc học tập như: học thuộc bài, làm đủ bài tập, thực hiện trách nhiệm đối với trường lớp, giúp đỡ bạn bè cùng tiến bộ. Người tự giác trong học tập luôn là người năng động, sáng tạo, tích cực trong công việc của tập thể… Trái với tự giác trong học tập là hay nghỉ học vô lí do, cúp tiết ; hay vi phạm quy trường lớp; không chủ động học tập, luôn để cha mẹ, thầy cô phải nhắc nhở; lười học; lười tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ; …
* Ý nghĩa của tự giác trong học tập.
Tự giác trong học tập chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để hình thành những phẩm chất, năng lực cốt lõi của con người trong học tập và cuộc sống.
Rèn luyện tính tự giác trong học tập giúp học sinh hình thành hình thành nhân cách đạo đức tốt đẹp, cư xử có đạo đức, có văn hóa. Tự giác để giải quyết mọi tình huống trong cuộc sống một cách đúng đắn, nhận được sự đánh giá cao của mọi người xung quanh về năng lực cũng như kỹ năng giao tiếp mà bản thân thể hiện.
Tự giác trong học tập giúp học sinh chủ động, sáng tạo hơn, quản lý thời gian, quản lý bản thân hiệu quả, và giúp học sinh có thể vượt qua những thử thách khó khăn trong học và hoàn thành các nhiệm vụ học tập, không ngừng học tập để phát triển bản thân.
Tự giác trong học góp phần hình thành tính tự chủ cho cuộc sống, tính trách nhiệm trong mọi hành động của mình và sáng tạo trong tri thức, giúp xã hội không ngừng lớn mạnh, hội nhập quốc tế cao.
2.2. Thực trạng tính kỷ luật tự giác trong học tập của học sinh trường Trung học cơ sở ….
2.2.1. Thuận lợi và khó khăn trong giáo dục tính tự giác trong học tập cho học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp:
a. Thuận lợi
Công tác quản lý, giáo dục học sinh luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể nói chung. Luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm của chi bộ Đảng, của Ban Giám Hiệu, của Công đoàn cùng sự giúp đỡ của tất cả các ban ngành trong hội đồng sư phạm trường Trung học cơ sở … nói riêng.
Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn trẻ, khỏe, nhiệt tình, yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng; yêu nghề, thực sự yêu thương, quan tâm đến học sinh. Cùng sinh sống ở địa phương xã Nam Dong nên tôi tương đối hiểu về văn hóa, lối sống và hoàn cảnh của người dân nơi tôi đang công tác.
Hầu hết các phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học của con em mình.
Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách.
b. Khó khăn
Bản chất của công tác chủ nhiệm là giáo dục con người. Mỗi con người lại có các đặc điểm riêng về tâm lí, khả năng nhận thức và hoàn cảnh sống khác nhau … Bởi vậy công tác chủ nhiệm là một công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức.
Học sinh trung học cơ sở cơ bản thuộc lứa tuổi từ 12 – 14 tuổi. Đây là thời kì chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Trong giai đoạn “tập làm người lớn” này, tâm lí của các em rất phức tạp, nhạy cảm và khó bảo.
Trong thời đại mới, thời đại kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế thì có nhiều hình thức vui chơi, giải trí, có nhiều thông tin không lành mạnh, kích động, bạo lực đã tác động mạnh đến tư tưởng thanh thiếu niên, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống của các em.
Một số gia đình, phụ huynh chưa quan tâm sâu sát đến việc học tập của con em mình, còn phó mặc trách nhiệm cho nhà trường. Một số phụ huynh chưa tự giác, chưa chủ động phối hợp với nhà trường để giáo dục con em mình.
2.2.2. Thực trạng tính kỷ luật tự giác của học sinh trường Trung học cơ sở ……
a. Thành công:
Đa số học sinh ngoan, lễ phép, có ý thức tự giác thực hiện nghiêm túc nội quy trường, lớp. Học sinh biết yêu thương, quan tâm đến gia đình, người thân và bạn bè, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, bị bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là những bạn bè cùng trường.
Học sinh có ý thức tự giác chủ động trong học tập và đạt được những thành tích cao. Số lượng học sinh đạt giải trong các kì thi do các cấp tổ chức tương đối nhiều.
Học sinh chủ động, năng động trong các hoạt động của Đoàn – Đội, tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ như hội khỏe Phù Đổng, văn nghệ chào mừng 22/11, bày mâm quả trung thu…; cuộc thi sáng tạo Khoa học kĩ thuật, Sáng tạo thanh thiếu niên, viết thư UPU…
Học sinh tích cực trong lao động, bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp, bảo vệ tài sản chung, có ý thức tiết kiệm điện, nước…
b. Hạn chế:
Trong công tác chủ nhiệm chưa xây dựng được tập thể lớp vững mạnh, ý thức tự giác, tự quản trong học tập của một số học sinh chưa tốt.
Một số học sinh thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường, lớp học như đi học muộn, không đeo khăn quàng, không đóng thùng, đi dép lê; sinh hoạt 15 phút đầu giờ chưa nghiêm túc. Một số học sinh hay nghỉ học vô lí do, cúp tiết, thậm chí còn cúp tiết, nghỉ học theo nhóm. Học sinh tham gia các hoạt động văn – thể – mĩ còn mang tính hình thức, đối phó, chưa thực sự hiệu quả. Vẫn còn những học sinh có hạnh kiểm trung bình.
Một số học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập: không học bài cũ, không làm bài tập và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Một số học sinh có học lực yếu, kém, chán học, bỏ học giữa chừng hoặc phải thi lại, ở lại lớp.
Một số học sinh chưa hòa đồng, chơi theo nhóm, có thái độ phân biệt, đối xử với các bạn bè, giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực, đánh nhau; tình trạng này thậm chí còn diễn ra ở các học sinh nữ.
Ý thức bảo vệ tài sản chung, môi trường còn hạn chế. Một số học sinh còn xé rách các tờ bảng tin, đạp chân lên tường, ngắt ngọn cây, bông hoa trong khuôn viên trường; ý thức tiết kiệm điện, nước chưa cao.
2.2.3. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
Một số học sinh còn mơ hồ về mục tiêu học tập, nhận thức nghề nghiệp trong tương lai. Các em không hiểu rõ được sức mạnh của tri thức trong đời sống, không nhận thức được sâu sắc vai trò, ý nghĩa của học tập trong đời sống. Vì vậy các em chỉ đi học theo yêu cầu của cha mẹ, theo thói quen…; không biết học để làm gì?
Một số học sinh chưa biết cách lập kế hoạch học tập, thời gian học cụ thể, rõ ràng và kiên trì thực hiện theo kế hoạch đã đề ra. Các em chỉ học theo cảm hứng, khi học khi không, thiếu sự đều đặn. Một số học sinh chưa tìm ra được phương pháp học tập hiệu quả. Do vậy nhiệm vụ học tập trở nên khó khăn, nặng nề tạo ra tâm lí chán học, lười học, học qua loa, nghỉ học, bỏ học…
Một số học sinh còn thiếu ý thức trách nhiệm với bản thân, còn dựa dẫm, ỷ lại mọi việc vào cha mẹ. Do vậy không có ý thức tự chủ, tự giác trong học tập. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, với nhiều kênh thông tin giải trí, các luồng thông tin không lành mạnh đã tác động tiêu cực đến nhận thức, tâm lí, lối sống của lứa tuổi thanh thiếu niên. Một số học sinh thiếu kĩ năng trong sử dụng đúng đắn, hiệu quả các trang mạng xã hội: Facebook, Twice, Messenger… đã ảnh hưởng ít nhiều quá trình và kết quả học tập của các em.
Một số gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cha mẹ phải đi làm công nhân hoặc làm nuơng rẫy xa, các em ở nhà với ông bà hoặc các anh chị em nên các em thường thiếu sự quan tâm, sự động viên từ gia đình. Một số gia đình có điều kiện thì nuông chiều con, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của con, thay con làm mọi việc tạo cho các em tâm lí dựa dẫm vào cha mẹ, thiếu ý thức tự giác học tập và ý chí phấn đấu trong cuộc sống. Trong thời đại mới, nhiều phụ huynh học sinh thiếu kiến thức nuôi dạy con, không hiểu được tâm sinh lý của con em mình, vẫn còn la mắng, đòn roi. Trong quá trình giáo dục con, một số phụ huynh chưa chú trọng hướng dẫn con em mình xây dựng những giấc mơ, lý tưởng sống, xác định mục tiêu học tập cụ thể, giáo dục và rèn luyện cho các em ý thức tự chủ, trách nhiệm với bản thân và ý thức tự giác trong học tập. Phụ huynh thường quản lý về thời gian học tập, thúc giục và nhác nhở con cái học tập, thường chú trọng về quá trình học tập, điểm số. Cha mẹ thường nói với con mình “Không đi học thì con làm được trò trống gì”. “Không đi học thì ở nhà làm rẫy”. “học đi để sau này có một cuộc sống ổn định”. Vì vậy trên con đường học tập của mình, nhiều học sinh còn mơ hồ: Không biết trong cuộc sống mình cần gì và phải làm gì? Vì sao phải học tập? Những kiến thức ở nhà trường dùng để làm gì?
Hiện nay, nhiều giáo viên còn thiên về bồi dưỡng chuyên môn mà chưa quan tâm đúng mực đến công tác chủ nhiệm. Trong công tác chủ nhiệm, giáo viên còn nặng về việc rèn luyện, chưa chú ý đến việc định hướng, bồi dưỡng động cơ học tập, ý thức tự giác.
Sự kết hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường – gia đình và xã hội chưa thực sự chặt chẽ. Một số phụ huynh chưa tự giác, chưa chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, nhà trường trong việc giáo dục, quản lý con em mình.
2.3. Các giải pháp, biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Nguyên tắc cơ bản trong giáo dục tính tự giác trong học tập cho học sinh:
Luôn coi trọng nguyên tắc “lấy học sinh làm trung tâm”, là chủ thể của quá trình giáo dục, biến giáo dục thành tự giáo dục, học thành tự học. Giáo viên đóng vai trò là người định hướng, hướng dẫn, tổ chức, quản lý, giám sát các nội dung và hoạt động giáo dục. Học sinh là chủ thể tích cực trong các hoạt động giáo dục. Chú trọng cho học sinh tự trải nghiệm trong học tập của học sinh. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự xác định động cơ học tập, mục tiêu học tập và phương pháp học tập. Chỉ thông qua tự học và tự trải nghiệm thực tế để giải quyết các vấn đề đặt ra trong học tập và cuộc sống thì các em mới hiểu rõ về bản thân, thế giới xung quanh, từ đó hình thành được năng lực tự chủ, trở thành người năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 4
- 169
- 1
- [product_views]
- 8
- 102
- 2
- [product_views]
- 3
- 199
- 3
- [product_views]
- 7
- 112
- 4
- [product_views]
- 2
- 149
- 5
- [product_views]
- 1
- 184
- 6
- [product_views]
- 0
- 133
- 7
- [product_views]
- 5
- 193
- 8
- [product_views]
- 0
- 144
- 9
- [product_views]
- 2
- 113
- 10
- [product_views]