SKKN Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy môn Tiếng Anh ở lớp 3
- Mã tài liệu: BM3024 Copy
Môn: | Tiếng anh |
Lớp: | 3 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 462 |
Lượt tải: | 3 |
Số trang: | 17 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 17 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Hiền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy môn Tiếng Anh ở lớp 3” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
Biện pháp 1: Sử dụng songs, chants trong dạy học
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi trong dạy học
Biện pháp 3: Về môi trường lớp học đa trí tuệ
Mô tả sản phẩm
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, việc học ngoại ngữ nói chung và môn Tiếng Anh nói riêng ở các trường tiểu học đã được chú trọng hơn rất nhiều. Khi tiếng Anh đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của nó trong các trường học và các cấp học, thì việc nâng cao chất lượng dạy và học là rất quan trọng. Vậy làm thế nào để nâng cao được hiệu quả của việc dạy và học là một nhu cầu thiết yếu không chỉ đối với người học mà đặc biệt là đối với người đang trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh.
Nhưng không phải học sinh nào cũng phù hợp với một cách dạy như nhau vì theo thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt và mỗi em mang trong mình một số trí thông minh khác nhau.
Thuyết đa trí tuệ là một thuyết mang tính nhân văn, nó không đánh đồng hay ép buộc học sinh phải theo một chuẩn nhất định mà xem xét sự thông minh của các em theo nhiều hướng khác nhau, giúp các học sinh thêm tự tin vào bản thân bởi nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tự ti mặc cảm và không dám phát huy khả năng của mình là các em đã bị người thân hoặc thầy cô vô tình dán nhãn tiêu cực là yếu kém khi học tập chưa đạt điểm cao.
Thấy được tính nhân văn và khả năng ứng dụng cao của thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh là lý do tôi chọn đề tài “Ứng dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học môn Tiếng Anh ở lớp 3”
để làm báo cáo, cùng đồng nghiệp nghiên cứu, thảo luận để góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng đào tạo của môn học.
- Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
- Mục tiêu
– Hiểu hơn về học sinh để có những phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực học sinh theo yêu cầu mới, phù hợp với sự thay đổi của xã hội.
– Nâng cao chất lượng học tập của bộ môn, giúp học sinh học tiếng Anh có hiệu quả, nắm vững kiến thức và xa hơn là thể sử dụng trong giao tiếp.
Nói tóm lại, SKKN hướng đến mục đích cuối cùng là cải tiến cách hiểu học sinh từ đó cải tiến phương pháp dạy học, cách đánh giá học sinh, tạo thêm hứng thú cho học sinh, giúp học sinh tự tin tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kỹ năng, phát triển nhân cách, phát triển năng lực giao tiếp và bồi dưỡng các phẩm chất và năng lực chung khác bằng chính cách của mình dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu, người thực hiện đề tài này cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các tài liệu về thuyết đa trí tuệ.
2. Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn Tiếng Anh, các kỹ thuật dạy Tiếng Anh - Nghiên cứu các cách đánh giá học sinh.
- Quan sát và nghiên cứu về tâm lí học sinh
- Kiểm tra, đánh giá kết quả việc nắm bài của học sinh để từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý.
- Đối tượng nghiên cứu.
– Thuyết đa trí tuệ
– Các kĩ thuật dạy học tích cực.
– Các phương pháp dạy học tích cực.
– Các cách đánh giá học sinh
– Khách thể trợ giúp nghiên cứu: Các đồng nghiệp cùng chuyên môn trong và ngoài trường, cùng trao đổi, dự giờ, học hỏi kinh nghiệm.
- Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
– Phạm vi nghiên cứu: học sinh khối 3 trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai.
– Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm học ……….. đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu.
– Nghiên cứu tài liệu, sách vở;
– Phương pháp thực nghiệm sư phạm;
– Phương pháp trực quan;
– Phương pháp trò chơi học tập.
- PHẦN NỘI DUNG
- Cơ sở lí luận
Vào đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Alfred Binet đã phát triển một phương pháp cho phép đo lường trí thông minh của các em học sinh rồi xếp loại chúng thành 3 hạng: chậm hiểu, trung bình và sáng trí. Ông cho rằng khả năng giải đáp các bài toán của một em học sinh chính là dấu hiệu cho biết về trí thông minh và khả năng đó sẽ gia tăng theo tuổi trưởng thành. Vì thế, Binet đã làm ra một thứ thước đo trí thông minh.
Năm 1905, Alfred Binet và Théodore Simon đã phổ biến một thang đo trí thông minh cho các em tuổi từ 3 – 13.Các điểm số được tính trong thang điểm Binet và trong các bài trắc nghiệm tương tự đều dùng tới tuổi trí tuệ (MA – Mental Age). Một em nhỏ có tuổi trí tuệ là 7 nếu em có thể giải được các bài toán mà phần lớn các em nhỏ 7 tuổi đều giải được. Mặc dù tuổi đời của em đó có thể là 5 hay 9 tuổi.
Năm 1914, nhà tâm lý học người Đức William Stern cho biết rằng, do so sánh tuổi trí tuệ (MA) với tuổi thực, người ta biết được sự phát triển của trẻ em. Stern cho rằng dùng tuổi trí tuệ (MA) chia cho tuổi thực là cách để đo lường tốc độ học tập (để tránh các số lẻ, người ta nhân kết quả với 100). ông William Stern đã gọi đó là “chỉ số tuổi trí tuệ”.
Năm 1916, nhà tâm lý học người Mỹ thuộc Trường đại học Stanford là ông Lewis Terman (1877-1956) đã sửa đổi các bài trắc nghiệm của Alfred Binet thành bài trắc nghiệm Stanford-Binet và đưa ra ý niệm về “chỉ số thông minh” IQ.
Năm 1949, nhà tâm lý học David Wechsler cho phổ biến “thước đo thông minh Wechsler” dùng cho các thiếu niên từ 5 tới 15 tuổi, thước đo trí thông minh dùng cho người trưởng thành (năm 1955) dùng để trắc nghiệm mọi người từ 16 – 64 tuổi, phần tiêu chuẩn đặc biệt dùng cho người cao tuổi từ 60 – 75 tuổi.
Để xác định tuổi trí tuệ (MA), các nhà giáo dục và tâm lý học đã dùng tới các bài trắc nghiệm để đo lường khả năng trí tuệ của các em học sinh. Các câu hỏi được xếp đặt từ dễ đến khó và liên quan tới trí nhớ, cách lý luận, các định nghĩa, khả năng tính các con số và khả năng nhớ lại các dữ kiện. Theo cách tính theo IQ, điểm trung bình là 100 theo các bậc, ví dụ từ 132 trở lên là cực kỳ thông minh, 121-131 rất thông minh, 89-110 thông minh trung bình, 79-88 kém thông minh, dưới 67 là đần độn.
Nhưng bản thân những bài trắc nghiệm đo trí thông minh khó đánh giá một cách công bằng các khả năng của mọi người. Ví dụ: Nếu bài trắc nghiệm bằng tiếng Anh, khiến những người bản xứ sẽ thuận lợi hơn. Một người đi du lịch nhiều sẽ có điểm trắc nghiệm cao hơn người khác trong lĩnh vực này.
Các bài trắc nghiệm về trí thông minh chỉ giới hạn phạm vi đo lường vào các khả năng lý luận toán học và ngôn ngữ, mà hầu như đã bỏ quên những năng khiếu khác như sự khéo tay, năng khiếu thể thao, khả năng giao tiếp, âm nhạc và nghệ thuật… Mặt khác, IQ test đã không xét tới các tài năng và khuynh hướng thường không được xếp hạng như tài thuyết phục, tài thương lượng…
Năm 1988, thuyết Đa trí tuệ (trí thông minh đa dạng) được Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner của đại học Harvard giới thiệu lần đầu trong quyển “Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences”. Ông phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn được đồng nhất và đánh giá dựa theo các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ khả năng tri thức đa dạng của con người.
Ông đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trong số 8 loại: ngôn ngữ, lôgic/toán học, âm nhạc, không gian, vận động cơ thể, giao tiếp (tương tác cá nhân), nội tâm (hướng nội), thiên nhiên (tự nhiên học). Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những loại trí thông minh vượt trội hơn các trí thông minh còn lại.
- Thực trạng
* Thuận lợi
– Môn Tiếng Anh là môn mới được áp dụng đối với học sinh tiểu học trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú, hoặc yêu thích với môn học còn mới mẻ này, nên mỗi khi lên lớp đa số học sinh rất tích cực.
– Được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường; sự quan tâm của cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp.
– Trường có tương đối đầy đủ về thiết bị, đồ dùng dạy học như : băng đài, đĩa, máy chiếu phục vụ cho việc dạy và học. Có cơ sở vật chất và xây dựng phòng học, đóng bàn ghế theo chuẩn.
– Có nhiều cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học hành của con em. Học sinh ngoan, ham mê học Tiếng Anh.
– Có được sự hợp tác tốt giữa giáo viên và học sinh.
– Qua quá trình học tập, tìm hiểu qua sách báo, tài liệu cũng như quá trình giảng dạy đã giúp cho tôi có những kinh nghiệm thiết thực trong khi thực hiện.
* Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì vẫn còn một số khó khăn còn gặp phải:
+ Hầu hết học sinh ở đây đều là con em thuần nông, con em dân tộc thiểu số nên điều kiện đầu tư cho các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần học tập của các em;
+ Trường chưa có phòng học chức năng riêng biệt với đầy đủ trang thiết bị;
+ Do điều kiện và hoàn cảnh, phụ huynh chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh, nên chưa quan tâm, đốc thúc các em học môn học này, dẫn đến một số em không có điều kiện mua sách vở đầy đủ.
+ Do điều kiện phát triển về mọi mặt còn hạn chế, điều kiện để các em học sinh tiểu học được tiếp xúc với các thông tin đại chúng, các chương trình giải trí sử dụng Tiếng Anh còn ít. Dẫn đến khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế, huống hồ là giao tiếp bằng Tiếng Anh.
+ Bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công.
+ Hơn nữa các em cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn để tự học ở nhà. Bởi vì là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 155
- 1
- [product_views]
- 6
- 163
- 2
- [product_views]
- 8
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 125
- 4
- [product_views]
- 5
- 118
- 5
- [product_views]
- 8
- 110
- 6
- [product_views]
- 7
- 116
- 7
- [product_views]
- 0
- 188
- 8
- [product_views]
- 5
- 192
- 9
- [product_views]
- 1
- 187
- 10
- [product_views]