SKKN Vận dụng phương pháp “ bàn tay nặn bột” vào dạy môn Khoa học lớp 5
- Mã tài liệu: BM5026 Copy
Môn: | Khoa học |
Lớp: | 5 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 972 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Lê Văn Tám |
Năm viết: | 2022-2023 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Trần Thị Hồng Hoa |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Lê Văn Tám |
Năm viết: | 2022-2023 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Vận dụng phương pháp “ bàn tay nặn bột” vào dạy môn Khoa học lớp 5″ triển khai các biện pháp như sau:
Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
Tổ chức tốt các bước khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Mô tả sản phẩm
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5
- MỞ ĐẦU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học. Mục tiêu của môn khoa học lớp 4; 5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự trao đổi chất; sự sinh sản của động vật, thực vật, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kĩ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên. Qua đó hình thành và phát triển những thái độ và hành vi như: Ham hiểu biết, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh.
Như chúng ta đã biết, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi cách truyền thụ một chiều sang “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác và khả năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập vào thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú trong học tập. Coi học tập là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và sử lý thông tin, tự hình thành và chiếm lĩnh tri thức, từ đó trở thành con người tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống. ” Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực và thích hợp cho việc dạy môn khoa học lớp 5 nói chung và đặc biệt có hiệu quả khi thực hiện dạy bài “Dung dịch” nói riêng. Thật vậy phương pháp bàn tay nặn bột trú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm hiểu biết, tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua việc tiến hành thí nghiệm, quan sát, …. Học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thiết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức và cũng chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Hay nói cách khác: “ Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học được tổ chức nhằm giúp học sinh tự phát hiện ra tri thức khoa học. Trên cơ sở vận dụng tất cả các giác quan của mình, kinh nghiệm, tri thức cũ và tham gia làm thực nghiệm khoa học. Như vậy, phương pháp “Bàn tay nặn bột” đề cao vai trò chủ thể tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, hình thành cho các em phương pháp học tập đúng đắn. Các em học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động. Các em sẽ tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn, trình bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh luận, tạo ra môi trường học tập tích cực.
” Bàn tay nặn bột” là một phương pháp mới, mang lại hiệu quả rất cao trong quá trình dạy học. Học sinh được tập làm các nhà khoa học tự mình nghiên cứu và chiếm lĩnh được các kiến thức, phương pháp này giúp các em ghi nhớ kiến thức lâu và sâu hơn, các em hiểu vấn đề rõ ràng hơn và không bị mơ hồ. Song phương pháp này còn mới, việc vận dụng đối với giáo viên chưa quen, còn lúng túng, giáo viên chưa hiểu hết phương pháp “Bàn tay nặn bột” và phương pháp này sử dụng hiệu quả trong môn nào, bài nào. Ngoài ra việc vận dụng phương “Bàn tay nặn bột” vào dạy khoa học lớp 5 còn giúp bạn bè đồng nghiệp hiểu rõ về bản chất, cách thức dạy theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” để dần dần áp dụng rộng hơn với các môn học khác.
Vì vậy tôi chọn đề tài: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy môn khoa học lớp 5 để khẳng định những kết quả đạt được khi vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học, đồng thời góp thêm một chút kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp này.
1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của phương pháp “Bàn tay nặn bột” là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp “Bàn tay nặn bột” còn chú ý đến việc rèn luyện các kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết của học sinh. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận với thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tòi. Các hoạt động nghiên cứu tìm tòi gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (Câu hỏi lớn), nêu giả thiết, nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu, đối chiếu các nhận định (giả thiết đặt ra ban đầu). Đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác, nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành các thí nghiệm hoặc thử làm lại các thí nghiệm như các đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng, rút ra kết luận và giải thích cho các vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này học sinh luôn luôn phải động não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. Con đường tìm ra kiến thức của học sinh cũng đi lại gần giống với quá trình tìm ra các kiến thức mới của các nhà khoa học.
Khi dạy bài “Dung dịch” sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu “Bàn tay nặn bột” với mục đính làm cho học sinh tự mình chuẩn bị những đồ dùng cần thiết như: Cốc, nước, mì chính, muối, đường, dầu ăn….. sau đó tự mình dùng những chất đã chuẩn bị để tao ra những hỗn hợp theo ý muốn và các em tự mình quan sát kết quả vừa tạo ra để nhận xét các hiện tượng sảy ra. Dưới sự gợi ý của giáo viên thì học sinh sẽ chiếm lĩnh được kiến thức về đặc điểm của dung dịch và điệu kiện để tạo ra một dung dịch một cách nhẹ nhàng mà được khắc sâu, nhớ lâu.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
– Học sinh khối 5 trường Tiểu học Điện Biên 1 Thành phố Thanh Hóa (Năm học ……..)
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
– Phương pháp thí nghiệm, nghiên cứu
– Phương pháp kiểm chứng
– Phương pháp so sánh, thảo luận, quan sát
-Phương pháp điều tra khảo sát thực tế,
– Phương pháp thu thập thông tin;
– Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
– Phương pháp đọc tài liệu.
– Phương pháp điều tra.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp.
– Phương pháp thực nghiệm.
– Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
– Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mà trong đó học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một số công cụ và những giác quan để nghiên cứu tìm tòi, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” áp dụng hiệu quả nhất ở môn khoa học bởi vì: “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuốc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, phân tích, so sánh, thảo luận, và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá của học sinh.
Tầm quan trọng của thí nghiệm trong khoa học: Thí nghiệm trong khoa học được đưa ra để xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết hoặc một dự đoán lý thuyết nào đó. Thí nghiệm có thể mô phỏng bất cứ lúc nào, tại bất cứ đâu, minh họa những khái niệm của các nguyên tắc và các định luật khoa học…
Thí nghiệm khoa học nói chung là một thí nghiệm quy nạp, tức là nếu nhiều thí nghiệm đều đưa về một kết quả thì một kết luận chung sẽ được đưa ra. Trong tiến trình này, thí nghiệm thường đưa ra những giả thuyết xa hơn và từ đó dẫn đến sự phát triển của khoa học, kiến thức và hiểu biết.
Trong quá trình làm thí nghiệm, học sinh được phát triển và thực hành những kĩ năng bằng tay khi tập trung làm chính xác thí nghiệm theo hướng dẫn, đặc biệt là đối với những thí nghiệm có những thiết bị mới. Trước đó, thí nghiệm phải được lên kế hoạch, do đó học sinh học được cách sắp xếp công việc một cách khoa học, cách phác thảo kế hoạch, cách thảo luận, làm việc nhóm những gì liên quan đến công việc chung ( như: nguyên vật liệu và thời gian làm việc,…). Học sinh cũng học được cách miêu tả thí nghiệm. Nhờ việc tiến hành thí nghiệm, học sinh có thể tự đem kiến thức nhất định đến cho mình.
- 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
- a) Thuận lợi
Giáo viên thường xuyên được tiếp thu các chuyên đề về các phương pháp dạy học mới đặc biệt là phương pháp “Bàn tay nặn bột” do trường tổ chức. Ngoài ra giáo viên thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
Thư viện nhà trường có đầy đủ tranh ảnh, đồ dùng trực quan cần thiết để phục vụ cho việc dạy học môn khoa học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Lớp được trang bị đầy đủ các thiết bị hỗ trợ dạy học hiện đại như máy chiếu, ti vi.
Các em học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.
Giáo viên hứng thú với việc tiếp cận những phương pháp mới vào dạy học và đặc biệt là phương pháp “Bàn tay nặn bột”
- a) Hạn chế
– Đối với giáo viên
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị và thực hiện.
Giáo viên chưa thật sự mạnh dạn áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy.
– Đối với học sinh
Một số học sinh thiếu sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết học và chưa tích cực tham gia các hoạt động trong giờ học khoa học.
Khả năng tập trung của học sinh chưa cao, ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như còn mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xáo thực hành còn vụng về, lúng túng.
Khả năng ghi chép của các em chưa tốt, các em chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích của thí nghiệm còn kém.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
Mục đích của giai đoạn này là định hướng cho một giờ lên lớp theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Do đó, giáo viên phải tiến hành các hoạt động từ việc xác định mục tiêu, nội dung bài học đến việc lựa chọn tình huống xuất phát, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho bài dạy và đồng thời dự kiến những vấn đề nảy sinh và những khó khăn trong tiết dạy để có những biện pháp xử lý. Giai đoạn này có ý nghĩa định hướng, vì vậy việc tổ chức cho học sinh học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” phụ thuộc nhiều vào giai đoạn này.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột”, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là: tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Vì vậy buộc giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương. Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô – gic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế.
+ Sự chuẩn bị của học sinh
– Học sinh cần chuẩn bị đủ đồ dùng học tập cá nhân hoặc chuẩn bị theo nhóm
– Tìm hiểu trước nội dung bài học thông qua việc đọc tài liệu và sách giáo khoa
+Sự chuẩn bị của giáo viên
– Ngay từ đầu năm, bản thân tôi đã lên kế hoạch và lập nhật kí dạy học theo phương pháp “bàn tay nặn bột” với các bài cụ thể như sau:
Số TT | Bài | Tên bài dạy | – Nội dung kiến thức áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột |
1 | 23 | Gang, sắt, thép | – Nguồn gốc của sắt, gang, thép và tính chất của chúng |
2 | 24 | Đồng và hợp kim của đồng | – Tính chất của đồng: màu sắc, độ sáng, tính cứng và tính dẻo |
3 | 25 | Nhôm | – Tính chất của nhôm |
4 | 26 | Đá vôi | – Tính chất của đá vôi |
5 | 27 | Gốm xây dựng: Gạch, ngói | – Tính chất của gạch, ngói |
6 | 29 | Thủy tinh | – Tính chất của thủy tinh |
7 | 30 | Cao su | – Tính chất đặc trưng của cao su |
8 | 31 | Chất dẻo | – Tính chất của chất dẻo |
9 | 32 | Tơ sợi | – Đặc điểm chính của tơ sợi tự nhiên và tơ sợi nhân tạo |
10 | 35 | Sự chuyển thể của chất | – Điều kiện để một số chất có thể chuyển từ thể này sang thể khác |
11 | 36 | Hỗn hợp | – Cách tạo ra hỗn hợp, đặc điểm củahỗn hợp– Cách tách các chất trong hỗn hợp |
12 | 37 | Dung dịch | – Cách tạo ra một dung dịch, đặc điểm của dung dịch– Cách tách các chất trong dung dịch |
13 | 38; 39 | Sự biến đổi hóa học | – Định nghĩa về sự biến đổi hóa học– Phân biệt sự biến đổi hóa hoc, lí học– Vai trò của nhiệt trong biến đổi hóa học |
14 | 40 | Năng lượng | – Các vật có biến đổi vị trí, hình dạng, nhiệt độ nhờ có năng lượng |
15 | 41 | Năng lượng mặt trời | – Tác dụng của năng lượng mặt trời |
16 | 46 ;47 | Lắp mạch điện đơn giản | – Lắp được mạch điện thắp sáng đơn giản– Phát hiện vật dẫn điện hoặc cách |
– Xác định mục tiêu bài học: Giáo viên cần phải xác định được những mục tiêu cơ bản về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà học sinh cần đạt được sau bài học. Việc xác định đúng trọng tâm bài học thì việc tổ chức cho học sinh học tập theo quy trình sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” mới tiến hành đúng hướng và đạt kết quả tốt.
– Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Từ mục tiêu bài học, giáo viên lựa chọn các vật liệu, đồ dùng dạy học như: các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, tài liệu cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, điều kiện của nhà trường và của địa phương. Đây là điều kiện thuận lợi để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm trên đối tượng thật, tạo điều kiện cho các em phát huy tối đa các giác quan khác nhau tiếp xúc với đối tượng. Từ đó hình thành biểu tượng đầy đủ về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Bên cạnh vật liệu, đồ dùng dạy học được lựa chọn phải đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Việc chuẩn
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 173
- 1
- [product_views]
- 0
- 104
- 2
- [product_views]
- 1
- 186
- 3
- [product_views]
- 1
- 188
- 4
- [product_views]
- 6
- 129
- 5
- [product_views]
- 1
- 174
- 6
- [product_views]
- 5
- 189
- 7
- [product_views]
- 2
- 114
- 8
- [product_views]
- 4
- 117
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 7
- 107
- 10
- [product_views]