SKKN Văn hóa sử dụng mạng xã hội của học sinh dân tộc nội trú

Giá:
100.000 đ
Môn: Công Đoàn
Lớp: THPT
Bộ sách:
Lượt xem: 4987
Lượt tải: 267
Số trang: 52
Tác giả: Lê Thị Thu Trang
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Đô lương 1
Năm viết: 2021-2022
Số trang: 52
Tác giả: Lê Thị Thu Trang
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Đô lương 1
Năm viết: 2021-2022

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Văn hóa sử dụng mạng xã hội của học sinh dân tộc nội trú triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

1. Giải pháp văn hóa sử dụng mạng xã hội của học sinh dân tộc nội trú:
1.1. Nhóm giải pháp chung
1.2. Nhóm giải pháp riêng
2. Đối với những lực lượng xã hội khác:
2.1. Về phía nhà nước:
2.2. Về phía nhà trường
2.3. Về phía gia đình
2.4. Về phía các cơ quan truyền thông
2.5. Một số giải pháp được các học sinh đề xuất trong phiếu khảo sát

Mô tả sản phẩm

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 

1. Lí do chọn đề tài: 

Mấy năm gần đây, trên Internet xuất hiện ngày càng nhiều các mạng xã hội, công cụ tìm kiếm, kết nối thông tin khác. Chúng phát triển nhanh, lan tỏa rộng khắp toàn cầu, điển hình là Facebook, Twitter, Youtube, Google, Yahoochat, Gmail… Riêng Facebook, chỉ sau mấy năm ra đời, mạng xã hội này đã có khoảng 2,3 tỷ người khắp thế giới sử dụng, hơn một nửa trong đó sử dụng hàng ngày. Mạng xã hội mang lại nhiều giá trị tích cực, cho phép người dùng tìm kiếm thông tin, thể hiện bản thân và trải nghiệm cuộc sống; giao lưu, gắn kết cộng đồng, chia sẻ tình cảm; tìm kiếm việc làm, học tập, kinh doanh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, thúc đẩy các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Mạng xã hội như “người bạn đồng hành” của giới trẻ nhưng mạng xã hội cũng có thể gây ra nhiều hệ lụy. Người dùng có thể bị xâm phạm đời tư, bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản và nhiều nguy cơ khác. Có một thực tế là môi trường mạng đang bị vẩn đục bởi các hành vi giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa hoặc lợi dụng các diễn đàn công khai để đả kích, nói xấu, bôi nhọ lẫn nhau. Không thiếu những lời nói tục, chửi thề, những phát ngôn gây sốc, những hành động trả thù bằng video clip, những lời bình luận miệt thị hay “bạo lực ngôn ngữ” tập thể, đặc biệt là đưa thông tin sai sự thật, gây hoang mang dư luận ngày càng gia tăng. Các biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, đạo đức, văn hóa truyền thống trên mạng xã hội đã đến mức đáng báo động. Nếu không sớm có biện pháp giáo dục, chấn chỉnh kịp thời, các thiết chế, chế tài ngăn chặn thì rất có thể những hiện tượng đó sẽ tiếp tục lan rộng và phát triển thành những hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm mất đi hình ảnh đẹp về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế. Từ sự xuống cấp trong sử dụng văn hóa mạng đòi hỏi sự chung tay của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, của mỗi người dân, nhằm hướng tới xây dựng môi trường văn hóa sử dụng mạng xã hội thực sự lành mạnh. Văn hóa sử dụng mạng xã hội trong các nhà trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và học sinh dân tộc nội trú nói riêng thời gian qua đã được quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, nhìn chung văn hóa sử dụng mạng còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Trình độ hiểu biết về pháp luật của học sinh nhìn chung còn hạn chế, lứa tuổi học sinh THPT, THCS là lứa tuổi đang có nhiều biến động, xáo trộn về mặt tâm lý, không phải là trẻ con song cũng chưa trở thành người lớn thực sự, các em muốn khẳng định mình nhưng lại chưa đủ những vốn sống, kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm cần thiết để khẳng định mình, đa phần học sinh chưa có kỹ năng tự ứng phó, dẫn đến rơi vào tình trạng bất ổn kéo dài, ảnh hưởng đến học tập và cuộc sống, thậm chí bế tắc tìm đến cái chết. 

    Là những người trực tiếp theo dõi, tham mưu công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục văn hóa sử dụng mạng xã hội, chúng tôi rất trăn trở và mong muốn tìm ra những giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục văn hóa sử dụng mạng xã hội, trong các nhà trường, để đội ngũ giáo viên và các em học sinh nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò của pháp luật, hiểu rõ văn hóa ứng xử về những quy tắc xử sự mà học sinh phải tuân theo, phải thực hiện; những điều, những việc mà pháp luật nghiêm cấm không được làm…để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, góp phần xây dựng xã hội văn minh, ngôi trường hạnh phúc. Nhận thức được thực trạng cấp thiết của văn hóa sử dụng mạng xã hội đối với lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An, nhằm đưa ra những giải pháp thật cụ thể giúp các em vượt qua những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy tính tích cực của nó, chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Văn hóa sử dụng mạng xã hội của học sinh dân tộc nội trú”. 

2. Mục đích nghiên cứu: 

  Qua khảo sát, điều tra, phỏng vấn, thu thập thông tin, dữ liệu văn hóa sử dụng mạng xã hội đối với học sinh dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra một số giải pháp khắc phục giáo dục và bảo vệ các học sinh khi tham gia môi trường mạng xã hội dưới mọi hình thức. Nâng cao hiệu quả học tập, tăng cường văn hoá giao tiếp trên mạng xã hội cho học sinh. 

3. Nhiệm vụ nghiên cứu: 

  • Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hóa sử dụng mạng xã hội đối với học sinh dân tộc nội trú. 
  • Khảo sát, điều tra, phân tích văn hóa sử dụng mạng xã hội đối với các học sinh dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 
  • Phân tích, lý giải nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục, hạn chế tác động tiêu cực và phát huy những tích cực của mạng xã hội đối với các học sinh dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 

4. Đối tượng nghiên cứu: 

  • Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa sử dụng mạng xã hội của học sinh dân tộc nội trú. 
  • Khách thể nghiên cứu: Học sinh đang học tập tại các trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 

5. Phạm vi nghiên cứu: 

  • Về nội dung: Hiện nay thế giới có hàng trăm mạng xã hội khác nhau như Facebook, Youtube, Twitter, MySpace… Mỗi mạng xã hội có một sự thành công nhất định dựa trên sự phù hợp với những yếu tố địa lý, văn hóa như: MySpace và Facebook ở Bắc Mỹ và Tây Âu; Orkut và Hi5 tại Nam Mỹ; Friendster tại Châu Á và các đảo quốc Thái Bình Dương; Bebo tại Anh Quốc, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản, và tại Việt Nam xuất hiện rất nhiều mạng xã hội như: YouTube, Facebook, Zing Me, Go.vn, Google Plus, YuMe, Tamtay…Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi giới hạn văn hóa ứng xử trên không gian mạng xã hội trong đó phạm vi mạng Facebook  –  Mạng xã hội phổ biến, lớn nhất Việt Nam với 64 triệu người dùng. 
  • Về không gian: Chúng tôi nghiên cứu văn hóa sử dụng mạng xã hội đối của học sinh dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 

PHẦN II: NỘI DUNG 

CHƯƠNG 1:  GIỚI THIỆU TỔNG QUAN 

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn 

1.1.1. Cơ sở lý luận văn hóa sử dụng mạng xã hội: 

1.1.1.1. Hệ thống khái niệm * Khái niệm Mạng xã hội: 

Thuật ngữ “Mạng xã hội” (Social Network) ra đời cách đây không lâu, khoảng cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của các dịch vụ kết nối thông qua mạng Internet. 

Về nội hàm khái niệm mạng xã hội, có nhiều cách định nghĩa khác nhau: 

Bách khoa toàn thư Wikipedia tiếng Việt định nghĩa: dịch vụ mạng xã hội (social networking service) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Những người tham gia vào dịch vụ mạng xã hội còn được gọi là cư dân mạng. Nghị định 97/2008/NĐ – CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ 

Internet và thông tin điện tử trên Internet xác định: Dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch vụ tạo blog, diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác. 

Có thể thấy, dù có nhiều cách phát biểu khác nhau, nhưng điểm chung và cũng là đặc trưng cơ bản trong nội hàm khái niệm mạng xã hội mà ai cũng nhận thấy đó là tính kết nối và chia sẻ rất mạnh mẽ. Mạng xã hội phá vỡ những ngăn cách về địa lý, ngôn ngữ, giới tính lẫn quốc gia. Những gì bạn làm, bạn nghĩ, cả thế giới có thể chia sẻ với bạn chỉ trong tích tắc. 

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, chúng tôi quan niệm mạng xã hội chính là một không gian ảo, vượt lên trên mọi giới hạn về địa lý, văn hóa –  nơi tất cả mọi người trên thế giới có thể nối kết, liên lạc, chia sẻ thông tin với nhau để thể hiện quan điểm, thái độ của mình. Chúng tôi cũng giới hạn phạm vi mạng xã hội được nhắc đến trong nghiên cứu của mình là mạng Facebook –  Mạng xã hội lớn nhất thế giới được sáng lập bởi Mark Zuckerberg cùng bạn bè khi đang là sinh viên năm thứ hai Đại học Harvard với hơn 2 tỉ người dùng mỗi tháng (số liệu tính đến tháng 6/2019 do Facebook công bố). 

  • Khái niệm “văn hóa”: 

 Tiến sỹ Nguyễn Thế Hùng cho rằng: Văn là đẹp, hóa là giáo hóa. Văn hóa là dùng để giáo hóa. Văn hóa có nghĩa là lấy cái đẹp để giáo hóa con người. Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống con người, là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại. Văn hóa thể hiện khát vọng sống của con người hướng về Chân  –  Thiện  –  Mỹ. Văn hóa trở thành công cụ quan trọng của con người. Văn hóa là thể tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. 

 Theo Ehniotte: “Văn hóa là cái gì đó còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”. Theo từ điển tiếng việt: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” 

  • Khái niệm “Văn hóa mạng: là một phong trào xã hội và văn hóa rộng lớn gắn liền với khoa học thông tin, công nghệ thông tin tiên tiến, sự xuất hiện và phát triển của chúng đối với sự nổi bật về văn hóa, xã hội giữa những năm 1960 đến 1990. Công nghệ mạng đã bị ảnh hưởng bởi nguồn gốc của nó bởi những người dùng đầu tiên của internet, thường bao gồm các kiến trúc sư của dự án ban đầu. Những cá nhân này thường được hướng dẫn trong hành động của họ bởi đạo đức hacker. Mặc dù công nghệ không gian mạng ban đầu dựa trên một mẫu văn hóa nhỏ và lý tưởng của nó, nhưng công nghệ mạng hiện đại là một nhóm người dùng đa dạng hơn nhiều với những lý tưởng mà họ tôn vinh. 

1.1.1.2. Phạm vi văn hóa sử dụng mạng xã hội: 

 Ngày nay văn hóa nói chung và văn hóa sử dụng mạng xã hội nói riêng lại được nhắc nhiều như ngày nay. Điều đó như đã cho ta thấy rằng tầm quan trọng của văn hóa ứng xử trong cuộc sống cũng như sự xuống cấp quả thật rất đáng báo động khiến không ít người trong chúng ta phải giật mình nhìn lại về văn hóa ứng xử của chính mình. Trong đó văn hóa sử dụng mạng xã hội của giới trẻ hiện nay đang bị tha hóa dần dần. Hình như công nghệ quá phát triển nên con người sống với nhau bằng thế giới ảo. Thế giới mà ở đó, công nghệ lên ngôi. Nhắn tin nói chuyện qua facebook, hay zalo thì rất lịch sự, quan tâm từng việc một, quan tâm đến ngày sinh nhật các kiểu. Nhưng khi gặp ngoài đời thì một câu chào cũng không có. Trên mạng là một người vô cùng tử tế, gặp ở ngoài thì nói năng thô tục, hành động thì thô bạo không chấp nhận được. Đến cả việc nói chuyện với nhau cũng phải nhắn qua điện thoại, ngôn ngữ giao tiếp giảm dần, con người khó nói chuyện với nhau. Đặc biệt trong các nhà trường thì học sinh bỏ học, cãi thầy cô giáo quá nhiều. Con cãi cha mẹ không phải số lượng nhỏ, sự tôn trọng lẫn nhau ngày càng bị giảm sút đi rất nhiều. 

Vì vậy, ngay từ bây giờ trong mỗi chúng ta hãy có những hành động đúng mực, tập cho mình những hành vi, lối sống tích cực. Và trên hết là điều đó sẽ giúp cho các em có một lối sống ứng xử tốt. Chúng ta không thể đổ lỗi do môi trường sống, hay môi trường giáo dục được mà đó là do ý thức của chính bản thân chúng ta. Để trở thành những mầm non tươi sáng của thế hệ mới thì các học sinh hãy không ngừng học tập cả về kiến thức trong sách về và kiến thức ngoài thực tiễn. Hãy dập tắt những phần xấu trong tâm trí mình để phần đẹp trỗi dậy và tươi sáng hơn. Những cái đẹp, cái thiện vẫn luôn có chỗ đứng trong cuộc sống. Hãy biến mình thành con người có văn hóa luôn được mọi người quí trọng. Những điều tốt đẹp các em mang đến sẽ tiếp sức cho đất nước chúng ta hướng đến một đất nước có nền văn hóa ứng xử tốt đẹp trên không gian mạng, trong cuộc sống, trong trường lớp, đối với gia đình, thầy cô, anh em , bạn bè, làng xóm….

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Ứng dụng công nghệ thông tin và vận dụng phương pháp sơ đồ hoá vào bài giảng Địa lí 11 Khu vực Đông Nam Á (Bộ sách Kết nối tri thức)
11
Địa Lí
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)