Ứng dụng các thủ thuật và phương pháp dạy học mới để nâng cao hiệu quả công tác dạy và học môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm ( Sách thí điểm/Global/Smart start/Friend plus)
- Mã tài liệu: MT6040 Copy
Môn: | TIẾNG ANH |
Lớp: | 6 |
Bộ sách: | Thí điểm/Global/Smart start/Family&friend |
Lượt xem: | 551 |
Lượt tải: | 1 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Đông Hương |
Năm viết: | 2021-2022 |
Số trang: | 29 |
Tác giả: | Nguyễn Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Đông Hương |
Năm viết: | 2021-2022 |
Sáng kiến kinh nghiệm “Ứng dụng các thủ thuật và phương pháp dạy học mới để nâng cao hiệu quả công tác dạy và học môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm ( Sách thí điểm/Global/Smart start/Friend plus) “triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
a. Các yếu tố cơ bản trực tiếp tác động đến hiệu quả dạy và học của một tiết học theo chương trình thí điểm:
b. Một số phương pháp thủ thuật đối với từng tiết học cụ thể:
* Đối với phần Pronunciation
* Đối với kỹ năng Reading
* Đối với kỹ năng Speaking có trong tất cả các tiết học
* Đối với kỹ năng Listening
* Một số trò chơi có thể lồng ghép vào bài dạy
Trò chơi thứ nhất: Truyền tin
Trò chơi thứ hai: Tìm bạn giao tiếp
Trò chơi thứ ba: Giúp bạn học tốt
Trò chơi thứ tư: Đoán từ
Trò chơi thứ năm: Miêu tả đồ vật
Mô tả sản phẩm
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình Tiếng Anh mới theo đề án 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo bậc THCS hiện tại mới chỉ được thí điểm ở các thành phố lớn và một số địa phương nhất định. Chương trình sách Tiếng Anh thí điểm mới được xuất bản và đưa vào giảng dạy thí điểm đã mang lại sự thay đổi hoàn toàn trong việc dạy và học bộ môn Tiếng Anh trong cả nước nói chung và ở cấp THCS nói riêng. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kĩ năng nghe, nói, đọc và viết trên những chủ đề và tình huống hay nội dung giao tiếp có liên quan đến môi trường sống trong và ngoài nước.
Hơn nữa, sách giáo khoa cũ hiện nay không còn phù hợp vì nhiều bài học, thông tin cũng như số liệu có trong bài học so với tình hình thực tế hiện nay là quá lỗi thời, không khuyến khích khả năng sáng tạo cũng như khả năng vận dụng vào thực tế của học sinh. Không ai có thể phủ nhận được rằng việc dạy và học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Những tình huống giao tiếp này chủ yếu do giáo viên tạo ra thông qua nội dung của các tiết học, nếu nội dung không phù hợp thì tình huống giao tiếp mà giáo viên đưa ra chắc chắn sẽ không thu hút được các em học sinh, từ đó nảy sinh thái độ đối phó hoặc không hào hứng trong việc thực hành giao tiếp của các em. Sách giáo khoa thí điểm đã giải quyết được vấn đề đó. Sách được biên tập rất lôgic, các phần kết nối với nhau rất chặt chẽ và khoa học.
Tuy nhiên, qua thực tế ở các trường THCS trong huyện …….. nói chung và trường THCS …….. nói riêng, khi bắt đầu dạy và học môn Tiếng Anh theo sách thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không chỉ có học sinh mà phần lớn giáo viên đều gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với giáo trình mới này. Bản thân học sinh mặc dù đã học chương trình mới này ở cấp Tiểu học nhưng đa số lại không đáp ứng được về mặt kiến thức cũng như các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết chưa đạt được yêu cầu cơ bản, thậm chí có rất nhiều học sinh còn không nói được những câu Tiếng Anh đơn giản nhất.
Bên cạnh đó, bản thân nhiều giáo viên sau khi nghiên cứu Sách giáo khoa mới còn chưa hiểu được mục đích, ý đồ của người viết sách; đó là chưa kể đến một số giáo viên không đủ năng lực để giảng dạy theo chương trình mới này. Trước tình hình đó, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh theo chương trình mới, bản thân tôi đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều làm sao để tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp để học sinh có thể nắm vững được lượng kiến thức khổng lồ mà vẫn tự tin, thoải mái trong giao tiếp bằng Tiếng Anh. Để tháo gỡ những khó khăn trên, trong quá trình vừa dạy học, vừa nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu quan sát học sinh, tôi phát hiện ra rằng muốn để học sinh nắm vững được bài học thì bản thân giáo viên cần thiết kế bài học sao cho thật phù hợp với đối tượng học sinh của mình, và quan trọng hơn cả đó là sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học cũng như vận dụng linh hoạt các thủ thuật cũng tìm ra các phương pháp dạy học mới lồng ghép vào từng tiết học. Trong quá trình dạy môn Tiếng Anh theo chương trình thí điểm, tôi đã nghiên cứu kỹ sách giáo khoa thí điểm, sách giáo viên và nhiều tài liệu liên quan, thảo luận với những đồng nghiệp giàu kinh nghiệm cùng dạy chương trình này trong các cuộc họp chuyên môn, các buổi tập huấn cũng như dự giờ tư vấn góp ý để tìm ra hướng khắc phục khó khăn, nhằm giúp giáo viên tự tin hơn trong việc truyền tải kiến thức cũng như vì mục đích cuối cùng đó là giúp các em học tốt hơn, không cảm thấy choáng ngợp với lượng kiến thức khổng lồ trong từng bài học. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của bản thân và các kiến thức có được qua tài liệu tham khảo, tôi viết đề tài nhỏ này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn, đổi mới phương pháp dạy và học. Với phạm vi sáng kiến nhỏ này tôi mạnh dạn đi sâu vào một vấn đề khá rộng đó là: “Ứng dụng các thủ thuật và phương pháp dạy học mới để nâng cao hiệu quả công tác dạy và học môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu:
Với việc nghiên cứu thành công của đề tài, sáng kiến kinh nghiệm giúp giáo viên có được những kinh nghiệm sau:
Cách thức tổ chức một tiết dạy theo chương trình thí điểm có hiệu quả.
Giáo viên hoàn thành chương trình theo đúng phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Giúp học sinh đạt được những yêu cầu bắt buộc của môn học, tự tin, mạnh dạn khi giao tiếp bằng Tiếng Anh, vận dụng linh hoạt những kiến thức đã được học vào cuộc sống.
b. Nhiệm vụ:
Bằng kinh nghiệm dạy học rút ra từ bản thân, tôi hệ thống lại một số các thủ thuật và phương pháp dạy học mới theo chương trình Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm. Bằng cách này, giáo viên có thể truyền tải được hầu như toàn bộ lượng kiến thức có trong một đơn vị bài học cho học sinh. Hạn chế được khó khăn trong việc soạn giảng. Và bản thân các em học sinh có thể dễ dàng lĩnh hội và vận dụng kiến thức mà giáo viên truyền tải, đồng thời phát huy một cách tích cực, chủ động, sáng tạo trong các tiết học, không cảm thấy nặng nề, quá tải. Tôi đã nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các công việc cụ thể đã được thực hiện hiệu quả minh chứng trong mỗi tiết dạy của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu là một số phương pháp và thủ thuật dạy học đối với từng kĩ năng trong giáo trình thí điểm. Phương pháp lồng ghép những trò chơi vui nhộn vào từng tiết học, tạo môi trường thực hành sôi nổi và không nặng nề cho học sinh. Ngoài ra có những thủ thuật dạy từ vựng, dạy kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết, và phần ngữ pháp…
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu học sinh lớp 6A4, và 6A5- học sinh lớp 6 theo chương trình thí điểm trường THCS …….. mà tôi đang trực tiếp giảng dạy trong năm học ………
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát: Người thực hiện đề tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp.
Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ người thực hiện đề tài, đồng nghiệp và người thực hiện đề tài tiến hành trao đổi, thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy.
Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên tiến hành dạy thể nghiệm theo từng mục đích yêu cầu cụ thể một số tiết dạy.
Phương pháp điều tra: Giáo viên đặt câu hỏi để kiểm tra đánh giá việc nắm nội dung bài học của học sinh.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Khi thực dạy môn Tiếng Anh theo chương trình thí điểm mới ở trường THCS Buôn Trấp, tôi luôn quan tâm đến việc tăng cường phát triển kỹ năng Nghe, Nói cho học sinh, làm tiền đề cho các em rèn luyện kĩ năng Đọc và Viết nhờ đó mà các em mới đam mê và thích thú môn Tiếng Anh hơn. Ngoài ra, tôi còn giúp các em hiểu rằng vì sao Bộ Giáo dục và Đào tạo lại thực hiện chương trình thí điểm này. Lý do chính là vì so với thế giới, thì người Việt Nam không hề thua kém ở bất kỳ lĩnh vực nào: Toán học, Công nghệ thông tin, Vật lý, Hóa học…. Tuy nhiên, riêng đối với việc giao tiếp bằng ngôn ngữ quốc tế thì Việt Nam hoàn toàn tụt hậu so với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí còn thua cả những nước kém phát triển hơn chúng ta về mọi mặt. Do đó, việc thay đổi phương pháp giảng dạy cũng như chương trình học cho học sinh là điều tất yếu. Các em được tiếp cận với chương trình này là điều vô cùng may mắn nhưng cũng là một thách thức không hề nhỏ cho bản thân người học và cả người dạy. Bởi vì rất nhiều lý do như xuất phát điểm của các em học sinh còn thấp, mà chương trình thí điểm lại yêu cầu tương đối cao, do đó muốn học được chương trình này có hiệu quả thì các em phải xác định rõ ràng mục tiêu học tập, chuyên cần cũng như tích cực trong các hoạt động mà giáo viên đề ra trong mỗi tiết học. Bản thân người dạy cũng cần tìm nhiều cách để tổ chức các hoạt động phù hợp và sinh động nhằm lôi cuốn các em tham gia tích cực vào những hoạt động do mình đặt ra.
2. Thực trạng
Với giáo trình mới đang được các trường THCS thí điểm giảng dạy, hầu hết giáo viên đều bỡ ngỡ và lúng túng trong việc giảng dạy, chưa tìm ra được cách soạn giảng phù hợp giúp học sinh tiếp cận với bài học một cách hiệu quả nhất. Học sinh thì khó khăn trong việc học giáo trình mới vì với lượng kiến thức trong tiết học tương đối nhiều và yêu cầu đưa ra trong từng bài học là khá lớn, do đó học sinh có biểu hiện lo sợ và chán nản với môn học. Chính vì vậy, đề tài này đóng góp một số biện pháp để khắc phục những vấn đề đó.
2.1 Thành công – Hạn chế
a. Thành công:
* Về phía giáo viên:
Sau khi Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức nhiều buổi tập huấn, giáo viên cốt cán đã xây dựng được phân phối chương trình phù hợp với giáo trình giảng dạy. Bản thân giáo viên phụ trách giảng dạy các lớp đề án là những giáo viên giỏi có kinh nghiệm trong giảng dạy, đã biết sử dụng phương pháp giảng dạy và kỹ năng dạy học từng dạng tiết học cho giáo viên.
Sau đó, Phòng Giáo dục và Đào tạo còn thành lập tổ tư vấn có nhiệm vụ giảng dạy các tiết học để giáo viên dự giờ thăm lớp học hỏi và góp ý, cũng như đi đến từng trường cụ thể để dự giờ thực tế đối tượng học sinh của từng trường, góp ý, tư vấn cho giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy chương trình thí điểm và cùng nhau tháo gỡ những khó khăn trong từng tiết học. Với mục đích cuối cùng là khắc phục được những khó khăn trong quá trình giảng dạy, giúp giáo viên tự tin, chủ động trong từng tiết học.
Đội ngũ giáo viên Tiếng Anh hầu hết là giáo viên trẻ, năng động, sáng tạo và có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình, tiếp cận với chương trình mới. Giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình đề án đã đạt trình độ B2, đủ khả năng chuyên môn để tiếp cận và giảng dạy chương trình thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp trong quá trình giảng dạy nhưng giáo viên đã biết khắc phục vượt lên những khó khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn Tiếng Anh nhằm đáp ứng mục đích và yêu cầu của chương trình thí điểm, SGK mới.
Giáo viên trực tiếp giảng dạy bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kỹ thuật dạy học đặc trưng, phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học và vận dụng thành thạo và linh hoạt các thủ thuật và phương pháp dạy học mới phù hợp với từng yêu cầu mục đích của tiết học.
Không chỉ giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình mới mà ngay cả giáo viên đang dạy chương trình cũ cũng đã bắt đầu từng bước làm quen và chủ động tiếp cận với chương trình mới.
Bản thân mỗi giáo viên không ngừng tìm hiểu, học hỏi và sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, vì vậy nhiều tiết dạy trở nên sinh động, có sức lôi cuốn và đạt hiệu quả cao.
* Về phía học sinh:
Đa phần học sinh rất yêu thích môn học và cảm thấy hào hứng với từng bài học do giáo viên thiết kế.
Bản thân các em đã học chương trình thí điểm ở cấp Tiểu học nên không bỡ ngỡ với giáo trình mới.
Một số học sinh đã hình thành kỹ năng trong học tập đối với bộ môn này.
Phần lớn học sinh nói được những câu đơn giản, xác định được mục tiêu học tập, tích cực và mạnh dạn tham gia các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức.
* Về cơ sở vật chất:
Lãnh đạo Nhà trường đã quan tâm đến các lớp học đề án, nên 100% lớp học theo chương trình thí điểm được trang bị những phương tiện dạy học hiện đại như: Smart TV, loa, máy vi tính, máy chiếu… Nên giáo viên được hỗ trợ đắc lực, sử dụng những phương tiện dạy học tốt nhất.
b. Hạn chế:
* Về phía giáo viên:
Lần đầu tiên được tiếp cận với giáo trình mới nên đa số giáo viên còn bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn khi thiết kế bài giảng, chưa tìm được phương pháp, thủ thuật phù hợp giúp đối tượng học sinh của mình tiếp cận với bài học một cách hiệu quả.
Mặc dù trên lý thuyết giáo viên đã đạt trình độ B2, đủ khả năng chuyên môn để tiếp cận và giảng dạy chương trình thí điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng thực tế nhiều giáo viên không đáp ứng được yêu cầu mà đề án đưa ra.
Vẫn còn một số giáo viên gặp một số khó khăn nhất định trong việc thực hiện các thao tác, kỹ thuật dạy học, chưa lựa chọn được các thủ thuật và phương pháp dạy học mới phù hợp với từng tiết dạy, từng giai đoạn của tiết dạy.
* Về phía học sinh:
Do thói quen học tập ở bậc Tiểu học, đa phần học sinh không có kỹ năng nghe giảng, chép bài, phối hợp một lúc nhiều kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết. Học sinh không có thói quen tự học, tự làm bài tập ở nhà nên việc uốn nắn và đưa các em vào nề nếp học tập là vô cùng khó khăn.
Nhiều học sinh còn ngại nói bằng tiếng Anh, còn sợ bị mắc lỗi, rất nhiều em tiếp cận bài học tương đối tốt, dẫn chứng là khi cho các em làm bài tập trên sách giáo khoa cũng như kiểm tra viết thì các em đạt yêu cầu nhưng khi giáo viên hỏi, cũng như yêu cầu những học sinh đó đọc câu trả lời thì các em lại lúng túng, phát âm sai hoặc thậm chí là không thể phát âm được.
Môi trường luyện tiếng của các em còn nhiều hạn chế. Đa số em ít có cơ hội để luyện tập ở nhà nên ngay ở lớp các em có thể thực hành tốt nhưng sau đó các em nhanh chóng quên hết. Hơn nữa, do hoàn cảnh của từng học sinh, không phải em nào cũng có máy vi tính để học và làm bài tập trên sách mềm.
Học sinh chưa quen với cách nói không có trọng âm của người Việt nên chưa tạo được những câu nói giống người bản ngữ. Cũng chính vì vậy ảnh hưởng trực tiếp đến kỹ năng nghe của các em. Hình thành nên kỹ năng giao tiếp kém hiệu quả.
Sách Tiếng Anh 6 chương trình thí điểm được biên soạn dựa trên sách Tiếng Anh bậc Tiểu học, nên sách được viết rất khoa học, logic và có nội dung phong phú, hấp dẫn. Tuy nhiên, việc học tập và đánh giá ở bậc Tiểu học còn khá nhẹ nhàng, do đó đa phần các em học sinh lên lớp 6 học theo chương trình thí điểm thì không đáp ứng được yêu cầu cơ bản cần phải có. Do đó, học sinh có xuất phát điểm thấp lại phải học chương trình thí điểm mới, nên lượng kiến thức mà các em phải tiếp nhận là tương đối nhiều và khó so với các em.
Lớp học có số học sinh quá đông so với một lớp học ngôn ngữ tiêu chuẩn nên việc theo sát và giúp đỡ từng em còn rất hạn chế. Hơn nữa, trình độ của học sinh trong lớp (do không được thi tuyển) nên có sự chênh lệch khá lớn, gây khó khăn cho giáo viên trong việc giảng dạy.
* Về cơ sở vật chất:
Mặc dù đã được lắp đặt TV thông minh ở từng lớp học, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh, chưa có phòng chức năng cho môn học.
2.2 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng đã đề ra
a. Lý do khách quan:
Bộ môn Tiếng Anh chưa phát triển và có phần tụt hậu so với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó tỉnh Đăk Lăk nói chung, huyện Krông Ana nói riêng lại có kết quả thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Theo tôi lý do đầu tiên và quan trọng nhất là do học sinh không có môi trường sử dụng ngôn ngữ mà các em đã được học. Nhìn tổng quan các nước trên thế giới như Ấn Độ hay Singapore, Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai chính thức được sử dụng trong đời sống hằng ngày. Còn những nước như Trung Quốc, Thái Lan, hay Malaysia thì ngành du lịch là một trong những thế mạnh của họ. Khi du lịch phát triển, ngôn ngữ quốc tế cũng phát triển theo, do nhu cầu cần có để đáp ứng lại ngành nghề đó; đồng thời môi trường giao tiếp cũng phong phú và cơ hội thực hành cũng thường xuyên hơn. Không so sánh với những tỉnh hay thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, trong cùng một khu vực nhưng học sinh Lâm Đồng lại có thể giao tiếp bằng Tiếng Anh tốt hơn nhiều so với học sinh Đăk Lăk nhờ lợi thế về du lịch và không bị ảnh hưởng nhiều về mặt chính trị như ở Đăk Lăk.
Lớp học môn Tiếng Anh chưa được tách riêng biệt phù hợp với đặc thù của môn học, vẫn còn học đại trà chung với các môn học khác theo quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo
b. Lý do chủ quan:
* Về phía người dạy:
Hầu hết giáo viên lần đầu tiên được tiếp cận với chương trình mới này, không tránh khỏi những bỡ ngỡ và lo lắng. Rất nhiều giáo viên cảm thấy lúng túng vì lượng kiến thức quá lớn cần phải truyền tải trong một tiết học, nên việc giảng dạy không hết nội dung yêu cầu là vấn đề thường xuyên xảy ra. Một phần vì bài học quá tải mà học sinh lại yếu, một phần vì bản thân giáo viên không hiểu hết được ngụ ý của người biên soạn sách nên chưa liên kết chặt chẽ giữa các phần với nhau, giúp tiết kiệm được thời gian và rút ngắn được tiến trình đứng lớp.
Đa số giáo viên đã quen với phương pháp và cách dạy của chương trình cũ nên việc thay đổi cách dạy cho phù hợp với chương trình mới ngay lập tức là điều khó khăn. Những giáo viên dày dặn kinh nghiệm đã giảng dạy giáo trình cũ nhiều năm nên thông thường sẽ áp dụng những phương pháp giảng dạy trước đây vào lớp học mới.
Một số giáo viên vẫn đang tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ nên gặp vấn đề về kiến thức khi giảng dạy là không thể tránh khỏi
* Về phía người học:
Phần lớn các em chưa đạt được yêu cầu sau khi hoàn thành chương trình Tiểu học, do đó việc tiếp cận một lượng kiến thức quá nhiều trong một tiết học là quá sức với các em.
Việc hình thành thói quen học tập, thực hành, làm bài tập cũng như luyện tập ở nhà cho các em là điều khó khăn lớn thứ hai. Vì ở bậc Tiểu học việc kiểm tra đánh giá tương đối nhẹ nhàng, do đó thói quen tự học của các em hầu như không có, chính vì vậy mà khi lên học ở bậc THCS thì trước nhiều yêu cầu của giáo viên, học sinh thường bị hoang mang, đôi lúc có biểu hiện sợ môn học.
Tính tự giác khi tham gia các hoạt động của học sinh chưa cao, các em còn ỷ lại vào thầy cô, chưa tích cực, chủ động hoạt động trong tiết học. Với lượng kiến thức và bài tập có trong một tiết học là tương đối nhiều, các em thường có tâm lý chán nản, mất tập trung.
3. Giải pháp – Biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Mục đích của việc dạy ngoại ngữ không những là cung cấp cho học sinh kiến thức của ngôn ngữ đó mà mục đích cuối cùng của việc dạy ngoại ngữ nói chung, và bộ môn Tiếng Anh nói riêng là giúp học sinh xây dựng nền tảng để phát huy khả năng giao tiếp bằng Tiếng Anh. Khả năng giao tiếp của học sinh thể hiện qua các kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết. Kỹ năng nói Tiếng Anh của học sinh được hình thành qua một quá trình học tập rèn luyện. Ngoài việc học tập ở trường lớp, học sinh phải tự học tập rèn luyện nghe thông qua các hình thức và các phương thức khác nhau. Nếu học sinh không nắm vững được những kiến thức cơ bản cần thiết thì học sinh không thể nào vận dụng vào trong thực tiễn được.
Với mục tiêu là nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm cũng như phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh bằng các tình huống thực tế trong cuộc sống. Giúp học sinh có thể tự tin, mạnh dạn trong khi nói Tiếng Anh.
Để tạo thêm nhiều hứng thú cho học sinh tham gia vào các hoạt động thực hành, giúp học sinh củng cố kiến thức, rèn luyện và phát triển các khả năng giao tiếp. Trong mỗi tiết học, giáo viên nên tạo môi trường giáo tiếp bằng tiếng Anh cho học sinh thông qua đó các em được thực hành và áp dụng những kiến thức vừa mới học vào giao tiếp thực tế. Những tình huống đưa ra gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em; từ đó, các em sẽ hăng hái và tích cực trong hoạt động giao tiếp. Giáo viên vừa đảm bảo nội dung bài học tiết kiệm thời gian mà học sinh vẫn hiểu bài và tham gia vào hoạt động mà giáo viên đưa ra.
Nhằm mở rộng, bổ sung một số ngữ liệu mới trong bài học và khắc sâu kiến thức cho học sinh cũng như tạo điều kiện cho học sinh thực hành kỹ năng giao tiếp, sau mỗi phần người biên soạn đã thiết kế dạng bài tập tương ứng để củng cố kiến thức đã được đề cập trước đó. Do đó, giáo viên cần linh hoạt thiết kế dạng bài thực hành để học sinh có nhiều cơ hội thực hành hơn nữa, bài tập dạng viết có thể làm mẫu 1 hoặc 2 câu, sau đó có thể giao cho học sinh hoàn thành ở nhà.
Tạo hứng thú cho học sinh trong một tiết học Tiếng Anh hay không tất cả phụ thuộc vào kỹ năng thiết kế xây dựng ý tưởng cùng với những thủ thuật linh hoạt của người giáo viên, khi học sinh đã tham gia tích cực thì phong trào học Tiếng Anh trong lớp nói riêng và trong toàn trường nói chung mới được đẩy mạnh.
Giúp cho học sinh trong toàn trường có cơ hội giao tiếp với nhau bằng Tiếng Anh, tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, nhằm thực hiện tốt cuộc vận động: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo thì điều trước tiên người học sinh đó phải có kỹ năng giao tiếp ngay chính trong lớp học trước. Sau khi học sinh đã có một số kỹ năng giao tiếp cơ bản thì giáo viên cần mở rộng sân chơi cho các em như giao lưu giữa lớp này với lớp kia, giữa học sinh khối này với học sinh khối kia, và giữa học sinh trong trường với nhau. Từ đó, để các em nhận thức được, giao tiếp là chìa khóa của mọi thành công. Chỉ có giao tiếp tốt các em mới có cơ hội thể hiện bản thân với bạn bè, với xã hội. Sau mỗi hoạt động như vậy, giáo viên cần đưa ra những nhận xét chi tiết cụ thể, tuyên dương những bạn có tiến bộ cũng như phân tích cho các em hiểu vì sao các em chưa thành công trong buổi sinh hoạt đó. Từ đó, các em nhận ra được những tồn tại của mình để nỗ lực khắc phục. Nội dung hình thức các hoạt động phải có sự thay đổi hoặc làm mới liên tục để ngày càng được phong phú hơn như:
Đóng kịch
Nói chuyện theo chủ đề
Thảo luận
Trò chơi lớn: “Jingle The Golden Bell”, “Who is a millionaire?”, “Vietnam’s got talence”…
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
a. Các yếu tố cơ bản trực tiếp tác động đến hiệu quả dạy và học của một tiết học theo chương trình thí điểm:
* Giáo viên:
Với phương pháp dạy học mới, tích cực thì giáo viên đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển học sinh hoạt động trong giờ học.
Để tiến hành một tiết học theo chương trình thí điểm có hiệu quả thì giáo viên cần thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau:
– Chọn và sử dụng linh hoạt các thủ thuật dạy học phù hợp với từng nội dung bài dạy.
– Tổ chức, điều khiển lớp học, phân bố thời gian hợp lý, nghiên cứu kỹ bài học để lược bỏ đi những phần không phải là trọng tâm cũng như nên thiết kế bài học những theo phương pháp hoạt động cặp, nhóm nhiều hơn để những học sinh khá có thể hướng dẫn và giúp đỡ những bạn yếu hơn.
– Sử dụng thành thạo các phương tiện, các đồ dùng dạy học. Đặc biệt, giáo viên không nên giảng dạy theo phương pháp truyền thống mà cần có sự hỗ trợ tối đa của các phương tiện dạy học.
– Sáng tạo ra các đồ dùng dạy học phù hợp phục vụ cho tiết dạy.
– Truyền cảm, lôi cuốn, hấp dẫn học sinh. Nhẹ nhàng lắng nghe để hiểu được tâm tư, nguyện vọng và sở thích của các em, cũng như khuyến khích các em trình bày ý kiến của mình.
* Phương pháp – thủ thuật dạy học
Phương pháp và tiến trình dạy học được quy định rõ ràng trong từng nội dung bài học. Nói cách khác, nội dung bài học sẽ chi phối việc lựa chọn, vận dụng phối hợp các phương pháp, các kỹ thuật dạy học. Mỗi kỹ thuật dạy học phù hợp với một hình thức bài dạy cụ thể (tiết Getting Started, Bài 1 trang 6 sách giáo khoa tiếng anh Bộ sách tiếng anh thí điểm lớp 6 tập 1).
Bên cạnh đó, giáo viên cần linh động hơn nữa, sử dụng các thủ thuật và học hỏi thêm các phương pháp mới, nhằm rút ngắn lượng thời gian dạy của từng phần cũng như nâng cao hiệu quả dạy của từng tiết học.
* Các phương tiện thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học:
Việc sử dụng thiết bị tranh ảnh hỗ trợ cho dạy học đối với môn ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng được coi là một phương tiện không thể thiếu. Hơn nữa, trong tất cả đơn vị bài học chương trình thí điểm thì như vậy chưa đủ. Muốn thực hiện tốt các tiết học này, thiết bị dạy học còn là phương tiện tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học, thúc đẩy động cơ và tạo hứng thú học tập. Sự hỗ trợ của công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng giúp giáo viên giảng dạy, nhờ đó mang lại hiệu quả đích thực trong từng tiết học. Hơn thế nữa, nếu không có sự hỗ trợ đó thì thậm chí giáo viên còn không thể hoàn thành bài giảng của mình theo đúng tiến độ theo khung phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng. Do đó, để việc giảng dạy theo chương trình đề án thành công thì các thiết bị, phương tiện dạy học không thể thiếu trong mỗi tiết học là:
– Tranh ảnh minh hoạ liên quan đến nội dung bài học trong sách Tiếng Anh thí điểm.
– Các tranh ảnh đồ dùng giáo viên tự tạo….
– Máy tính xách tay có kết nối Internet (để giáo viên dễ dàng truy cập mạng sử dụng sách mềm), loa đài, máy chiếu….
* Học sinh:
Trong mối tương quan giữa cách dạy và cách học: Giáo viên là người tổ chức, điều khiển học sinh tự chiếm lĩnh tri thức bằng chính những thao tác, những hành động trí tuệ của riêng mình dưới vai trò tổ chức điều khiển của giáo viên.
Để tiết dạy được tốt thì học sinh chính là nhân tố quyết định, nếu các em giữ thái độ không hợp tác, hoặc các em nhút nhát không dám thể hiện ngôn ngữ thì giáo viên không thể giúp các em phát triển được.
Ngoài ra, học sinh cần phải có những kỹ năng cần thiết trong việc nói tiếng Anh như kỹ năng kéo dài thời gian (gain-time techniques, asking techniques, giving ideas techniques…).
b. Một số phương pháp thủ thuật đối với từng tiết học cụ thể:
Dưới đây là một số thủ thuật và phương pháp mới trong giảng dạy bộ môn Tiếng Anh theo chương trình thí điểm mà bản thân tôi đã thực nghiệm và đánh giá là có hiệu quả khá tốt trong việc nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tiếng Anh 6 theo chương trình thí điểm:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 114
- 1
- [product_views]
- 7
- 198
- 2
- [product_views]
- 7
- 172
- 3
- [product_views]
- 8
- 138
- 4
- [product_views]
- 5
- 118
- 5
- [product_views]
- 4
- 173
- 6
- [product_views]
200.000 ₫
- 0
- 494
- 7
- [product_views]
100.000 ₫
- 7
- 529
- 8
- [product_views]
100.000 ₫
- 7
- 423
- 9
- [product_views]
100.000 ₫
- 7
- 561
- 10
- [product_views]