SKKN Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1
- Mã tài liệu: BM1030 Copy
Môn: | Tiếng việt |
Lớp: | 1 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 836 |
Lượt tải: | 18 |
Số trang: | 20 |
Tác giả: | Phạm Thị Mỹ Hạnh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Chí Thanh |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 20 |
Tác giả: | Phạm Thị Mỹ Hạnh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Chí Thanh |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
2.3.1. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung cố định
2.3.2. Đối với dạng bài kể chuyện có nội dung không cố định
Mô tả sản phẩm
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong chương trình môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng, được xếp liền sau phân môn Tập đọc do ranh giới giữa tiếng và văn nên Kể chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ, vừa thuộc phạm trù hình tượng nghệ thuật văn chương. Đặc điểm này thống nhất cơ bản mang tính đặc trưng của môn học vừa là cung cấp tri thức về Tiếng Việt để phát triển tối đa năng lực ngôn ngữ của mình, biết sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để làm công cụ giao tiếp và tư duy. Mặt khác phân môn Kể Chuyện có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ, góp phần hình thành nhân cách và đem lại cảm xúc lành mạnh cho học sinh bằng việc các em được nghe và được tham gia kể hàng trăm câu chuyện thuộc đủ các thể loại khác nhau trong suốt bậc tiểu học. Như vậy phân môn Kể chuyện có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng thế hệ trẻ rất to lớn. Dạy phân môn này một mặt thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, mặt khác góp phần tạo nên tính hoàn chỉnh và thống nhất cao cho toàn bộ chương trình đào tạo. Tạo điều kiện tốt hơn tronh việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đào tạo con người mới của thời kì CNH- HĐH. Để thực hiện việc dạy phân môn Kể chuyện được tốt, đáp ứng được mục tiêu đề ra thì chúng ta phải có bộ chương trình hiện đại và hệ thống phương pháp dạy học hoàn chỉnh, tối ưu. Hiện nay chương trình Kể chuyện ở bậc Tiểu đặc biệt là Kể chuyện lớp 1 với việc đưa ra một hệ thống bài tập kể sáng tạo đã thực sự trở thành một cương lĩnh tiến bộ. Sự thay đổi nội dung chương trình đó đòi hỏi cần phải có sự đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Trong các tiết kể chuyện ở lớp 1 hiện nay, hầu hết các giáo viên đang còn sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh ưu điểm, những phương pháp này vẫn còn tồn tại và hạn chế. Đó là chưa phát huy được tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, đồng thời không rèn luyện được kĩ năng lao động trí tuệ, gây cản trở việc chiếm lĩnh tri thức một cách thụ động. Việc rèn luyện kĩ năng không được quan tâm một cách đúng mức. Như vậy việc sử dụng phương pháp dạy học cũ làm hạn chế tính ưu việt của chương trình mới, đồng thời không phát huy được tính tích cực của HS trong quá trình học tập. Một vấn đề dặt ra, cần phải có sự đầu tư nghiên cứu về phương pháp dạy học làm sao để dạy cho các em cách suy nghĩ, cách tư duy sáng tạo, để làm dược điều đó không có con đường nào khác là phải sử dụng hệ thống các phương pháp dạy học tích cực trong đó phương pháp kể chuyện sáng tạo là một trong những phương pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện lớp 1. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1″ là mục tiêu nghiên cứu của bản thân trong quá trình giảng dạy.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
– Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học phân môn kể chuyện ở lớp 1 trường chúng tôi. Từ đó đề xuất một số vấn đề những giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo ở lớp 1 theo định hướng tích cực hoá hoạt động của người học, lấy học sinh làm trung tâm.
– Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn.
– Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa với việc kể sáng tạo.
– Đề ra các giải pháp dạy học kể sáng tạo.
-Việc vận dụng giải pháp kể sáng tạo trong dạy học môn kể chuyện lớp 1.
– Nâng cao chất lượng hiệu quả của việc dạy học kể chuyện ở lớp 1.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
* Phương pháp thu thập tài liệu, thông tin :
Tôi thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau như : Tài liệu trên mạng internet, sách, báo để phục vụ cho việc lụa chọn các giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1.
* Phương pháp phân tích :
Từ những nguồn tài liệu đã thu thập được tôi phải phân tích, lựa chọn những thông tin cần thiết, thích hợp.
* Phương pháp thực nghiệm :
Từ những tiết dạy thực nghiệm với những giải pháp khác nhau để đúc rút được những giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1.
* Phương pháp điều tra, đánh giá, thống kê :
Tôi đối chiếu kết quả khi chưa áp dụng sáng kiến với kết quả tiết dạy thực nghiệm để thấy được hiệu quả của các biện pháp mình đã áp dụng.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
* Quan điểm tâm lí học:
Suốt chặng đường dài 5,6 năm trời nhờ sự giúp đỡ của người lớn, các chức năng tâm sinh lí của trẻ được hoàn thiện một cách tốt đẹp. Đó là cơ sở đầu tiên để đưa trẻ em hình thành và phát triển nhân cách con người để bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn lứa tuổi của học sinh lớp 1, ở lứa tuổi này các em tiếp tục diễn ra sự phát triển tâm sinh lí ở mức độ cao hơn về mặt tâm lí, khả năng tri giác của học sinh lớp 1 mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết, không mang tính chủ động. Trẻ em luôn hứng thú về một cái gì đó nhưng hứng thú biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Mỗi xúc động của các em lại kích thích đến cảm xuác và mỗi cảm xúc lại ảnh hưởng đến tri giác một cách khác nhau.
Một trong những lĩnh vực phát triển tri giác cho học sinh lớp 1 là tri giác thẩm mĩ với các tác phẩm nghệ thuật. Điểm mới trong tri giác của các em là xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc các em tham gia vào hoạt động kể chuyện và nghe kể cũng là một trong những hình thức để tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Một điểm quan trọng trong sự phát triển tâm sinh lí của học sinh lớp 1 là sự tưởng tượng. Giàu sức tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ gắn với năng lực hiểu biết của các em. Lứa tuổi các em đặc biệt là lớp đàu cấp, có thể nói đó là mảnh đất phì nhiêu để bồi đắp trí tưởng tượng cho con người. Học sinh lớp 1 thường nói lên những điều quá sự thật với niềm tin ngây thơ, những biểu hiện trên đều nằm trong sự tưởng tượng. Hoạt động tưởng tượng phải dựa trên nền tảng liên tưởng dựa trên sự ghi nhớ các sự vật hiện tượng. ý thức được vai trò của trí tưởng tượng phong phú của lứa tuổi học sinh lớp 1 và sự hấp dẫn trong văn học là rất cần thiết để khi dạy kể chuyện sáng tạo giáo viên sẽ có sẽ có sự vận dụng biện pháp, phương pháp có hiệu quả.
Học sinh lớp 1 rất hiểu động, hiếu thắng , nhiều hứng thú và muốn biết tất cả. Các em thích nghe chuyện, thích quan sát. Các nhà tâm lí học cho rằng: “Đặc điểm nổi bật nhất trong tư duy của học sinh lớp 1 là tư duy cụ thể mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc điểm trực quan và dựa vào những hành dộng thao tác trên những đối tượng cụ thể”. Đối với học sih lớp 1 tư duy trực quan, hình tượng phát triển mạnh. Từ những đặc điểm tâm sinh lí nói trên chúng ta đã xác định những biện pháp dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo phù hợp nhất.
* Quan điểm ngôn ngữ học:
Giai đoạn giáo dục Tiểu học là góp phần làm cho trẻ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách thành thạo trong đời sống hàng ngày. Chúng ta biết rằng ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất giúp ta giao tiếp với người khác, lĩnh hội nền văn hóa, khoa học kĩ thuật để đưa đứa trẻ thành một thành viên của xã hội. Sự phát triển ngôn ngữ là quá trình bao gồm nhiều giai đoạn. Nếu như ở lứa tuổi Mẫu giáo bước đầu giúp cho trẻ hoàn thiện ngôn ngữ nói thì đến lứa tuổi học sinh Tiểu học ngôn ngữ nói của các em được phát triển ở mức cao hơn, đồng thời ở giai đoạn này các em còn hoàn thiện ngôn ngữ viết. Càng lên cao nhu cầu giáo tiếp càng mở rộng, vốn ngôn ngữ xã hội của các em càng phát triển nhanh. Do đó học sinh lớp 1 không chỉ sử dụng ngôn ngữ như một ơhương tiện thông báo mà đã sử dụng nó với ý nghĩa trao đổi và giao tiếp. Tuy nhiên trong thực tế vấn còn một số em nói năng chưa đúng, kém văn hoá, dùng sai từ. Sở dĩ có hiện tượng này là do sự phát triển ngôn ngữ của các em theo con đường tự phát, bắt chước hay học lõm. Vì vậy phân môn Kể chuyện có một vai trò cực kì quan trọng, góp phần hoàn thiện ở học sinh ngôn ngữ nói không phải chỉ ở mức bình thường mà rèn luyện ngôn ngữ nói một cách nghệ thuật.
* Quan điểm Giáo dục học:
Cũng theo các nhà Giáo dục học hiện đại thì chỉ khi nào có một phương án phát triển coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình giáo dục, lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của quá trình dạy học và tôn trọng nhân cách của nó như một thực thể hồn nhiên thì nền giáo dục đó mới là nền giáo dục nhân văn. Tuy nhiên trong quá trình đó vai trò của người giáo viên không hề bị hạ thấp mà cần phải được nâng cao. Giáo viên là người điều khiển, tổ chức quá trình dạy học. Đúng như nhà giáo dục vĩ đại Tiệp Khắc Cô men X ki đã nói: “Đứa trẻ ra đời thế nào, điều đó chẳng ai có thể quyết định được, nhưng dẫn dắt một cách đúng đắn để các em trở thành người tốt điểu đó tuỳ thuộc vào khả năng của chúng ta, những nhà Sư phạm, những cô giáo và những người mẹ hiền.” Chính vì vậy có thể nói vai trò của người giáo viên cực kì quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu đặc điểm phát triển của học sinh lớp 1, tôi đã lấy đó làm căn cứ để nhìn nhận mặt bằng chung năng lực của học sinh lớp 1 khi làm quen hệ thống bài tập kể sáng tạo.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Tâm lí trẻ em đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi từ 1 đến 12 tuổi rất thích nghe kể chuyện . Chúng thường được nghe ông bà ,cha mẹ , thầy cô kể những câu chuyện cổ tích có những nhân vật thật gần gũi với lứa tuổi của chúng . Ngoài ra kể chuyện còn đem đến cho các em nhiều niềm vui , sự thích thú , thư giãn sau những giờ học căng thẳng . Những câu chuyện đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội của con người. Nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những mơ ước cao xa cùng với sự phát triển hài hòa, toàn diện của bản thân. Ngoài ra những chuyện kể còn bồi dưỡng cho trẻ những tri thức thông thường về tự nhiên, xã hội. Môn kể chuyện còn là phân môn kích thích sự vận động linh hoạt của trí tuệ ,mở ra cho các em những chân trời mới, cho trí tưởng tượng làm phong phú các các hình thức màu sắc lí tưởng sống đang từng bước hình thành trong tâm trí trẻ em. Ánh mắt vui tươi, những tiếng cười sảng khoái, không khí nhộn nhịp, thư giãn trong giờ kể chuyện tạo ra sự gần gũi, cảm thông, long tin cậy giữa thầy cô và các em. Đặc biệt với những em còn rụt rè, nhút nhát, do bản thân hoặc do hoàn cảnh sống. Khi học tiết kể chuyện, các em sẽ có cơ hội gần gũi, hòa đồng với các bạn, các em được sống cùng những nhân vật trong truyện giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn. Đối với học sinh tiểu học kể chuyện là môn học rất hấp dẫn và thường được các em học sinh chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng, vui thích. Qua đó tôi nhận thấy rằng kể chuyện là một môn học lý thú và hấp dẫn ở trường Tiểu học là có cơ sở. Ngoài ra kể chuyện còn hình thành cho trẻ tính mạnh dạn, khả năng diễn đạt câu chuyện theo lời văn của mình, Các em biết nhập vai nhân vật một cách tự nhiên giúp các tự tin vào khả năng diễn đạt của mình. Trong tiết kể chuyện các em có thể hòa mình vào những nhân vật mình yêu thích. Các em được sống trong thế giới riêng của mình. Vì thế việc dạy kể chuyện cho các em rất cần sự đầu tư của giáo viên và phải xác định được tầm quan trọng của tiết kể chuyện.
Nhưng qua thực tế giảng dạy hiện nay , một số giáo viên vẫn chưa dành cho môn học này sự đầu tư xứng đáng. Tiết kể chuyện diễn ra rất tẻ nhạt, buồn chán. Giáo viên giảng dạy rất sơ sài. Có khi lên lớp giáo viên chỉ cầm sách đọc câu chuyện cho học sinh nghe một cách thờ ơ qua loa và không có cảm xúc sau đó cho học sinh đọc lại. Một tiết kể chuyện diễn ra ngắn gọn, buồn chán và đơn điệu. Vì vậy tiết kể chuyện chưa lôi cuốn học sinh, chưa tạo được hứng thú, lòng say mê học đối với phân môn này. Tiết kể chuyện diễn ra dưới hình thức độc thoại của giáo viên trong một giọng kể tẻ nhạt, không có tranh minh họa và học sinh chưa được hòa nhập vào từng nhân vật trong truyện vì giáo viên còn xem nhẹ tiết kể chuyện. Giáo viên chưa tạo được sự hứng thú học tập và phát huy tính tích cực của học sinh. Các em chưa được bộc lộ hết khả năng kể chuyện cũng như tính sáng tạo ở mỗi em. Thậm chí có những giáo viên còn xem phân môn này là môn học phụ nên dạy rất sơ sài. Xuất phát từ những đặc điểm tình hình qua quá trình giảng dạy môn kể chuyện. Bản thân tôi nhận thức rằng quá trình dạy kể chuyện là một quá trình nghệ thuật khoa học phức tạp, tinh tế nhiều mặt và có tính chất độc đáo. Và điều này càng bộc lộ rõ nét hơn qua phân môn kể chuyện. Vì vậy bản thân tôi là giáo viên Tiểu học, tôi đã nghiên cứu tìm ra những hướng giải quyết để tìm cách nào tiến hành “ Một tiết kể chuyện giúp học sinh biết kể chuyện sáng tạo theo chương trình cải cách mới của học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao hơn” .
* Chương trình sách giáo khoa kể chuyện lớp 1.
Toàn bộ chương trình sách giáo khoa lớp 1 có 27 bài kể chuyện khác nhau như: Thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết… ở giai đoạn Học vần học sinh được học 15 bài ôn tập, sau phần ôn tập các âm và vần mới học trong tuần, phần luyện viết và phần Tập đọc. Tất cả nội dung cùng được dạy trong 1 tiết do vậy ở giai đoạn này Kể chuyện chưa có tiết dạy riêng và bố trí sau 2 vòng nghĩa là 1 tuần có 1 tiết Kể chuyện. Mỗi mục kể chuyện được thiết kế từ 4 đến 6 tranh minh hoạ. Ví dụ: Bài: “Thỏ và Sư tử” Trang 45 có 4 tranh; Bài: “Tre ngà” Trang 57 có 6 tranh.
Các tranh ở đây chỉ mang tính chất là điểm tựa để học sinh có thể dựa vào đó để kể lại chuyện. Mục kể chuyện trong sách giáo khoa được nhận biết bằng kí hiệu rất phong phú và sinh động đó là một học sinh nữ đang nói, tay phải giơ lên làm hiệu. Tiếp theo là tên truyện và tranh vẽ. Đến phận luyện tập tổng hợp có thêm chữ ở dạng yêu cầu hay câu hỏi gợi ý dưới tranh:
Ví dụ: Chuyện “Sói và Sóc” (Tiếng Việt 1 – tập 2, trang 108).
1. Nghe kể chuyện
2. Kể lại từng đoạn theo tranh.
– Tranh 1: Chuyện gì xảy ra khi Sóc đang chuyền trên cành cây?
– Tranh 2: Sói định làm gì Sóc?
– Tranh 3: Sói hỏi Sóc thế nào? – Sóc đáp ra sao?
– Tranh 4: Sóc giải thích vì sao Sói buồn?
3. Phân vai kể lại toàn bộ câu chuyện
* Hình thức bài tập kể sáng tạo:
Các hình thức bài tập này được sắp xếp xen kẽ trong một tiết học, tạo nên sự đa dạng phong phú trong hoạt động học tập, tận dụng khả năng cuẩ mỗi học sinh. Khắc phục tình trạng nhàm chán, đơn lẻ khi phải nghe và kể lại một chiều như trước đây… Vậy kể chuyện sáng tạo nhằm phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh.
* Sự kết hợp kênh hình và kênh chữ:
Kể chuyện ở lớp 1 được xây dựng giữa kênh hình và kênh chữ với mức đọ khác nhau. Tuy nhiên ở lớp 1 kênh hình hoàn toàn chiếm ưu thế, 100% bài kể chuyện được thiết kế dưới dạng kênh hình ở phần Học vần và phần Luyện tập tổng hợp. điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 1, các em chưa biết đọc nên một văn bản chuyện dài thực sự là một khó khăn với các em . Hơn nữa đặc điểm tâm lí học sinh lớp 1 thiên về trực quan sinh động, nên nội dung câu chuyện được thể chế hoá bằng các tranh vẽ ngộ nghĩnh có tác dụng hấp dẫn trí tò mò của các em.
* Bài kể chuyện có nội dung cố định:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 102
- 1
- [product_views]
- 5
- 172
- 2
- [product_views]
- 2
- 184
- 3
- [product_views]
- 8
- 129
- 4
- [product_views]
- 0
- 151
- 5
- [product_views]
- 7
- 100
- 6
- [product_views]
- 6
- 160
- 7
- [product_views]
- 7
- 151
- 8
- [product_views]
300.000 ₫
- 4
- 178
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 5
- 193
- 10
- [product_views]