SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giờ dạy Luyện từ và câu lớp 4
- Mã tài liệu: BM4111 Copy
Môn: | Tiếng việt |
Lớp: | 4 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 197 |
Lượt tải: | 2 |
Số trang: | 21 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh Nguyệt |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 21 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh Nguyệt |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giờ dạy Luyện từ và câu lớp 4” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
3.1. Lập kế hoạch bài học
3.2. Chuẩn bị đồ dùng
3.3. Nghiên cứu một số kiến thức cần thiết
3.4. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
3.5.Các phương pháp giảng dạy
3.6. Phương pháp tổ chức cho học sinh làm bài tập Luyện từ và câu
3.7. Tổ chức thực hiện giờ dạy
3.8. Tổ chức các hoạt động phát triển năng lực tự học của học sinh
3.9. Giáo viên kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng đạt được ở HS
3.10. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp
3.11. Một số điều quan tâm
Mô tả sản phẩm
- PHẦN MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là môn học luôn đồng hành và xuyên suốt trong quá trình dạy học và ngay cả trong cuộc sống của mỗi người dân Việt Nam. Là người Việt ai cũng mong muốn mình học giỏi tiếng Việt. Ở bậc Tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó đặt nền tảng, cơ sở giúp học sinh học tập tất cả các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học mới là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Mục tiêu đó đã đặt ra cho những người thầy, người cô phải luôn suy nghĩ, tìm tòi để có phương pháp dạy học môn Tiếng Việt sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Từ mục tiêu chung mà chúng ta xác định mục tiêu cho từng phân môn để cung cấp yêu cầu chuẩn kiến thức và kỹ năng đối với đối tượng học sinh.
Trong dạy học quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn…song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ cung cấp kiến thức về từ và câu, làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em. Đây là môn học đóng vai trò quan trọng hàng đầu bởi nó dạy cho học sinh, cung cấp cho các em vốn tri thức Tiếng Việt ban đầu nhằm phục vụ cho việc tiếp thu các môn học khác một cách dễ dàng hơn. Vì vậy học Luyện từ và câu sẽ giúp cho các em hình thành, phát triển vốn ngôn ngữ của mình. Cụ thể là:
- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết về từ và câu.
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu, một số phép nối, cách thay thế và liên kết câu.
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp.
Với vai trò vị trí của phân môn Luyện từ và câu trong hệ thống các môn học, tôi nghĩ rằng: Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung và nâng cao hiệu quả giảng dạy Luyện từ và câu là một vấn đề liên tục. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn, chính vì thế mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giờ dạy Luyện từ và câu lớp 4”.
- Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
Bản thân có điều kiện để nghiên cứu sâu hơn việc tổ chức dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. Từ đó là cơ sở để tôi dạy tốt phân môn Luyện từ và câu.
- Đối tượng nghiên cứu
– Học sinh lớp 4A- Trường Tiểu học Quảng Thịnh
– Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
- NỘI DUNG
- Cơ sở lí luận
Là người Việt Nam, mỗi chúng ta ai cũng tự nhận thấy rằng ngôn ngữ chúng ta hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi con người ngay từ khi sinh ra đến tuổi đi học đều hình thành cho mình vốn ngôn từ Tiếng Việt, quy tắc giao tiếp nhất định. Bởi vậy, để tăng nhanh được vốn từ, để chính xác hóa nội dung ngữ nghĩa của từ cũng như thúc đẩy việc hình thành kĩ xảo ngữ pháp diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi không thể không chú ý đến việc rèn luyện, trau dồi cho các em vốn kiến thức về Tiếng Việt qua phân môn Luyện từ và câu. Kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình cũ đồng thời cũng để tạo ra phong thái mới trong dạy và học hiện nay, chương trình SGK mới ra đời với mong muốn sẽ giúp cho học sinh tiếp cận một cách dễ dàng hơn với môn tri thức mới.
Cùng với sự thay đổi về chương trình SGK thì việc đổi mới về phương pháp dạy học cũng là điều tất yếu. Sự đổi mới này phải theo hương tăng cường tổ chức hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành là một trong những mục tiêu quan trọng của chương trình Tiểu học mới.
Theo phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, SGK Tiếng Việt 4 nói chung, phân môn Luyện từ và câu nói riêng không trình bày kiến thức như là những kết quả có sẵn mà xây hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự học, tự thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh tri thức và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Hơn nữa ngày 28 tháng 08 năm 2014, Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT về quy định đánh giá học sinh tiểu học. Theo đó, kết quả học tập của học sinh tiểu học sẽ được thay đổi toàn diện không dùng điểm số để đánh giá mà thay vào đó là ghi nhận xét của giáo viên cho học sinh tiểu học, kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để khích lệ các em. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Thông tư 30 là đổi mới cách đánh giá học sinh Tiểu học.
Hiện nay trong quá trình giảng dạy phân môn Luyện từ và câu có nhiều điểm mới như:
– Phương pháp dạy học Luyện từ và câu hiện nay kế thừa và phát huy các ưu điểm của cách dạy Từ ngữ – Ngữ pháp trước đây.
– Tổ chức dạy học Luyện từ và câu theo phương pháp day học hiện nay có nhiều điểm mới. Đó là tăng cường luyện tập thực hành, tổ chức nhiều hình thức làm bài tập khác nhau.
– Học sinh có điều kiện bộc lộ năng lực, khả năng sử dụng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp.
-. Học sinh là người đóng vai trò chủ đạo, làm trung tâm, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên.
– Mỗi học sinh đều được hoạt động, bộc lộ mình và được phát triển.
– Học sinh được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo.
– Học sinh được rèn luyện thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu và ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với chuẩn mực văn hóa.
– Trang bị cho học sinh phương pháp học tập để học sinh có thể tự học sau này.
- Thực trạng của việc dạy học môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
2.1. Đối với giáo viên.
Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
– Phân môn“Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
– Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
– Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
– Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
– Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích cực và những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học.
2.2. Đối với học sinh.
– Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
– Học sinh không có hứng thú học phân môn này.
– Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu…Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
– Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
– Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
– Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng giờ Luyện từ và câu của học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập 1tuần 4 tiết 1. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4A bằng bài tập sau.
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau:
“Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập bùng trên các bếp. Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi nhau í ới.
Tảng sáng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn xuống thung lũng mát rượi”.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học ……, tôi đã thu được kết quả như sau với tổng số học sinh của lớp là 30 em:
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 155
- 1
- [product_views]
- 6
- 163
- 2
- [product_views]
- 8
- 188
- 3
- [product_views]
- 3
- 125
- 4
- [product_views]
- 5
- 118
- 5
- [product_views]
- 8
- 110
- 6
- [product_views]
- 7
- 116
- 7
- [product_views]
- 0
- 188
- 8
- [product_views]
- 5
- 192
- 9
- [product_views]
- 1
- 187
- 10
- [product_views]