SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường TH
- Mã tài liệu: BM1056 Copy
Môn: | Tiếng việt |
Lớp: | 1 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 473 |
Lượt tải: | 6 |
Số trang: | 24 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Trung Trực |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 24 |
Tác giả: | Bùi Thị Thu Huyền |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Trung Trực |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường TH” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Nghiên cứu toàn bộ nội dung phân môn học vần – tập đọc của chương trình lớp 1
2. Hệ thống các chủ đề luyện nói, xác định rõ mục tiêu, nội dung của chủ đề cần luyện nói có trong môn học vần – tập đọc
3. Khảo sát phân loại đối tượng học sinh trong lớp để lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp
4. Rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý
5. Rèn cho học sinh kỹ năng nói thành câu, thành đoạn
6. Hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề
7. Lựa chọn hình thức, phương pháp và ĐDDH giúp học sinh luyện nói theo khả năng
Mô tả sản phẩm
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt là bộ môn quan trọng trong chương trình Tiểu học. Môn Tiếng Việt góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện thế hệ trẻ. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt văn hoá hiện đại, để suy nghĩ, giao tiếp và học tập, giáo dục cho các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng, lành mạnh. Trong môn Tiếng Việt muốn “ Phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, người thầy cần biết tổ chức cho học sinh được “Tự bộc lộ” năng lực nhận thức và hành động qua các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết cùng với sự hợp tác trong học tập của bạn bè.
Trong 4 kỹ năng trên, nói là một hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1 SGK đã rất chú trọng đến việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học.
Nói là một trong 4 kỹ năng cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói. Luyện nói tốt tức là cơ sở nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Ngoài ra, luyện nói cho học sinh, sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ ngữ trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Việc rèn kỹ năng nói là giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của mình, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp.
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin… trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được chú trọng, chưa quan tâm đúng mức. Trong thực tế cho thấy, một số người có trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi trình bày ý kiến trước đám đông lại gặp rất nhiều khó khăn.
Cho nên với học sinh lớp 1, các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế.
Các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong lúc nói, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm chuẩn, nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm.
Với lý do trên, tôi xin đã mạnh dạn nghiên cứu “ Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1 ”
II. Mục đích nghiên cứu:
– Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp, rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình.
– Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén, lễ phép, thông minh hơn.
– Đưa ra những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
– Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã hội.
III. Đối tượng nghiên cứu:
– Nghiên cứu các giải pháp rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp các phương pháp sau:
– Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề.
– Phân tích những nguyên nhân nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng nói của học sinh.
– Thực hành, luyện tập.
B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ có thể sử dụng dạng nói hoặc dạng viết tuỳ theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp.
Việc rèn luyện kỹ năng nói rất có ích đối với sự phát triển và trưởng thành của học sinh, đồng thời giúp học sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung quanh. Cha, mẹ, thầy cô giáo nhiệm vụ giúp đỡ trẻ rèn luyện kĩ năng nói tự tin và hiệu quả. Họ cần dạy học sinh nói rõ ràng, thuyết phục và tự tin. Việc rèn luyện kĩ năng nói giúp học sinh trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng như trong nhiều nghề nghiệp trong tương lai.
Trẻ em và quá trình hình thành, phát triển tiếng nói: Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu sự thụ đắc ngôn ngữ của trẻ, với nhiều trường phái khác nhau. Tiêu biểu trong số đó là 4 trường phái: hành vi luận, bẩm sinh luận, vận động luận và tri nhận luận.
Tâm lý học tri nhận và ngôn ngữ học tri nhận có quan điểm tương đối toàn diện về khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ em. Theo quan điểm này, khi trẻ em bắt đầu thụ đắc ngôn ngữ (ngay từ những tháng đầu đời), chúng trước hết xây dựng những phạm trù đó được phân biệt. Những hình dung có tính khái niệm mà trẻ tạo dựng trong năm đầu tiên đối với các sự vật, quan hệ, đặc tính và các sự kiện cung cấp một nền tảng tri nhận rộng lớn, để trên nền tảng đó, chúng có thể tìm ra các từ ngữ từ trong chuỗi lời nói hướng đến trẻ. Theo tiến sĩ Pamela Snow, đại học, những trẻ em không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các kỹ năng giao tiếp bằng lời trong những năm đầu tiên của cuộc đời thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm xúc khi chúng lớn lên. Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em, từ 7 tuổi trở đi, trẻ em trở nên khó học ngôn ngữ hơn. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Lúc này, trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách.
Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ năng nói nói riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ của các em. Việc tìm ra những biện pháp phù hợp để phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh tiểu học là trọng trách của các nhà nghiên cứu giáo dục.
Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học: Định hướng đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn Tiếng Việt là phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, tạo cơ hội để có thể tăng cường rèn luyện cho học sinh cả 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Điểm mấu chốt để giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ động trong giờ học tiếng Việt là người giáo viên cần có những biện pháp huy động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích luỹ, rèn tập được có liên quan đến nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế chủ động cho học sinh trong việc tiếp thu bài mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh như: quan sát và thực hành theo mẫu, thực hành giao tiếp, thảo luận, tranh luận, thuyết trình, đưa ra kết luận, v.v… để khám phá kiến thức mới, thông qua đó mà rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói.
Quan điểm dạy học theo xu thế hiện nay là dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Ứng với quan điểm này sẽ có một hệ thống các phương pháp dạy học cụ thể, có thể gọi là các phương pháp dạy học tích cực. Mỗi phương pháp dạy học tích cực lại có một hệ thống biện pháp, thao tác đặc trưng (có thể gọi là hệ thống kĩ thuật) để thực hiện. Quy trình của một tiết dạy học (các bước lên lớp) phản ánh ý tưởng của phương pháp dạy học đã được lựa chọn. Lựa chọn PPDH nào, phối hợp các PPDH nào đối với mỗi bài học cần dựa vào đặc điểm, yêu cầu của mỗi kiểu bài học, năng lực HS trong lớp và điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể của từng trường, từng địa phương.
II. Thực trạng về rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
1.1. Thực trạng của giáo viên:
– Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi.
– Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
– Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
– Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt động của bài cũng như ở những giờ học khác.
– Đa số các đồng chí trong thao giảng hoặc các tiết dự giờ rất ngại dạy các tiết 2 của bài Tiếng Việt. Bởi vì tiết 2 có hoạt động luyện nói cho học sinh.
– Kỹ năng rèn nói cho học sinh chưa tốt: Chủ yếu là giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời chứ chưa biết bằng các câu hỏi gợi mở để giúp học sinh khá, giỏi có thể nói được những câu có hình ảnh hơn.
– Trong phần luyện nói giáo viên chủ yếu sử dụng các hình ảnh có sẵn trong SGK chứ chưa sưu tầm thêm các loại tranh ảnh khác phục vụ cho bài luyện nói đạt kết quả cao hơn.
– Giáo viên nghiên cứu nội dung của chủ đề luyện nói, và tranh phục vụ cho bài luyện nói chưa kỹ.
– Giáo viên chưa thực sự nhận thức hết vai trò của hoạt động luyện nói cho học sinh trong quá trình dạy học nên dễ dẫn đến sa vào việc dạy luyện nói thành tiết dạy học đạo đức.
– GV cũng chưa có biện pháp khuyến khích HS luyện nói hiệu quả.
GV chưa có biện pháp kiểm soát kết quả HS luyện nói theo nhóm khiến việc tổ chức cho HS hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả.
1.2. Thực trạng học của học sinh:
– Các em chủ yếu là con em vùng nông thôn nên các em còn hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học.
– Trong giờ học chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi khi giáo viên nêu yêu cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không?
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 0
- 102
- 1
- [product_views]
- 5
- 172
- 2
- [product_views]
- 2
- 184
- 3
- [product_views]
- 8
- 129
- 4
- [product_views]
- 0
- 151
- 5
- [product_views]
- 7
- 100
- 6
- [product_views]
- 6
- 160
- 7
- [product_views]
- 7
- 151
- 8
- [product_views]
300.000 ₫
- 4
- 178
- 9
- [product_views]
300.000 ₫
- 5
- 193
- 10
- [product_views]