SKKN Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 theo bộ sách Cánh diều

4.5/5

Giá:

100.000
Cấp học: THCS
Môn: Ngữ Văn
Lớp: 7
Bộ sách: Cánh diều
Lượt xem: 866
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
26
Lượt tải:

5

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 theo bộ sách Cánh diều” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

1. Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm chung của văn nghị luận.
2. Rèn cho học sinh nắm vững yêu cầu, bố cục của bài văn nghị luận giải thích.
3. Rèn cho học sinh các phương pháp, kĩ năng làm bài văn giải thích.

Mô tả sản phẩm

A. MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài

Trong quá trình đổi mới giáo dục cấp THCS nói chung và môn Ngữ văn nói riêng, mục tiêu, nội dung giáo dục đã được thay đổi, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội đang phát triển. Người thầy đã và đang vận dụng những phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh học tốt và yêu thích môn Ngữ văn. 

Ở nhà trường THCS, Tập làm văn là phân môn khó bởi cần đến khả năng thực hành tổng hợp và sáng tạo, đòi hỏi học sinh phải huy động, vận dụng tất cả những gì mà các em đã biết từ môn khác chứ không chỉ mình môn Ngữ văn. Vì thế, các em luôn cảm thấy bài làm văn là một gánh nặng chứ không phải là một niềm vui sáng tạo, một sự đam mê văn chương. Chương trình Tập làm văn lớp 7 đặt trọng tâm ở thực hành, nhận biết, làm văn bản. Làm văn nghị luận là một kỹ năng cơ bản, cần thiết và quan trọng giúp các em học văn tốt hơn. Trong đó, nghị luận giải thích là kiểu bài trọng tâm.. Biết cách làm và thành thạo bài làm văn nghị luận giải thích sẽ tạo nền tảng căn bản cho học sinh làm văn nghị luận sau này.

Tạo lập một bài văn nghị luận là công việc cần thiết, tạo nền tảng vững chắc cho học sinh trong quá trình làm văn sau này. Đặc biệt, nghị luận giải thích là một trong những kiểu bài khó nhất của chương trình ngữ văn 7. Đây cũng là kiểu bài có tính chất tiền đề cho học sinh học tập dạng bài nghị luận xã hội ở các lớp tiếp theo. Trước yêu cầu đó, người thầy luôn trăn trở để tìm ra những giải pháp, phương pháp phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao trong việc dạy và học. Trong đó, rèn kỹ năng làm kiểu bài là khâu then chốt. Việc tìm hiểu, nghiên cứu các biện pháp hình thức để rèn kỹ năng, cách làm bài văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 đã và đang trở thành một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Chọn đề tài: Một số kinh nghiệm dạy kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 theo bộ sách Cánh diều, tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ hiểu biết và công sức của mình vào việc nâng cao chất lượng làm văn của học sinh, tiến tới nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường THCS.

II. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp người dạy Văn tìm ra một con đường gần nhất và hiệu quả nhất đến với kĩ năng viết bài của học trò. Đối với môn Ngữ văn, học tập là để hướng đến năng lực cơ bản là nói và viết. Kĩ năng viết được xem là sản phẩm quan trọng của người học văn. Đó chính là công cụ cho bất kì ai thuộc bất kỳ lĩnh vực nào trên hành trình cuộc sống của mỗi người. Đề tài hướng đến giúp học sinh xác định rõ cách thức tiến hành, nội dung cơ bản cần có trong một bài văn nghị luận. Vận dụng đề tài vào thực tiễn giúp học sinh tự tin trước mỗi đề văn. Học trò sẽ tự tin, chủ động hơn khi đã có câu trả lời cho câu hỏi: viết thế nào? 

Giải quyết một đề tài cũng là một quá trình không ngừng học hỏi, tìm tòi và sáng tạo của người dạy. Trải qua thử nghiệm, thay đổi để cuối cùng vận dụng vào thực tế dạy học có kết quả cũng là một cách tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng.

III. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hướng đến rèn các kĩ năng kiểu bài làm văn nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7.

Đề tài tập trung nghiên cứu ba nội dung:

– Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm chung của văn nghị luận.

– Rèn cho học sinh nắm vững yêu cầu, bố cục của bài văn nghị luận giải thích.

– Định hướng cho học sinh các phương pháp, kĩ năng làm bài văn giải thích.

IV. Phương pháp nghiên cứu

   Các phương pháp tôi đã sử dụng: 

          – Phương pháp quan sát khoa học: Là phương pháp quan sát đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin. Có 2 cách quan sát khoa học là quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp.

           – Phương pháp điều tra: Là phương pháp mà giáo viên khảo sát đối tượng học sinh trong nhà trường THCS … để phát hiện những đặc điểm, cách học, khả năng làm bài.

          – Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp giáo viên chủ động vào đối tượng học sinh và quá trình diễn biến mà học sinh tham gia học để thực hiện theo mục tiêu, dự kiến của mình.

          – Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp nghiên cứu, xem xét lại những thành quả thực tiễn để rút ra kết luận bổ ích cho thực tiễn.

V. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

Trong năm học …………., tôi tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài: “Rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 7”mà bản thân đã nghiên cứu, vận dụng năm học ……

 Những điểm mới so với đề tài tôi đã từng vận dụng:

 Đối tượng áp dụng: Đề tài cũ tôi áp dụng đối với học sinh lớp 7 trường THCS … Đề tài này, tôi áp dụng cho học sinh lớp 7 trường THCS ….

 Thay đổi nội dung kiến thức: Trong đề tài cũ, nội dung kiến thức mà tôi rèn luyện cho học sinh là kiểu bài làm văn nghị luận nói chung. Trong bài viết này, tôi chủ yếu hướng dẫn học sinh kỹ năng làm bài văn nghị luận giải thích.

 Để đáp ứng yêu cầu đổi mới về phương pháp trong dạy học môn Ngữ văn cấp THCS, tôi đã bổ sung, đưa ra các giải pháp để rèn học sinh kỹ năng viết đoạn văn giải thích, kỹ năng đưa dẫn chứng khi giải thích, kỹ năng lập dàn bài, kỹ năng xác định và triển khai luận điểm cho bài làm văn nghị luận giải thích. 

 

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

 Trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, người thầy phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Dạy học Ngữ văn rất cần chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Một trong ba mục tiêu của môn Ngữ văn là: “Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Cụ thể hơn, mục tiêu môn Ngữ văn trong thời đại mới là “biết để làm”. Môn Ngữ văn không chỉ là môn “bồi dưỡng tâm hồn” mà quan trọng hơn là môn “công cụ” để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh ra văn bản (nói và viết). Nhờ vậy, phân môn này đã góp phần  hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học. [1] 

 Dạy phương pháp làm văn thực chất là luyện cho các em một số kĩ năng tương ứng với các giai đoạn của quá trình xây dựng bài văn. Kỹ năng là khả năng có thể hoàn thành một công việc nào đó để thu được một hiệu quả nhất định. 

 Bản chất của dạy học làm văn trong nhà trường là thực hành tổng hợp, hình thành và nâng cao các kĩ năng viết văn. Trong quá trình đó, giáo viên phải giúp học sinh rèn luyện các thao tác, biến các thao tác thực hiện các kĩ năng làm văn thành kĩ xảo. 

Với đề tài này, người viết tập trung đưa ra các giải pháp cụ thể trong những giờ dạy Tập làm văn về kiểu bài nghị luận giải thích. Đó là những biện pháp hướng dẫn học sinh nắm vững bản chất, yêu cầu, phương pháp của bài văn nghị luận giải thích. Người dạy rèn một số kĩ năng cơ bản cho học sinh làm tốt kiểu bài nghị luận giải thích. Bước đầu nâng cao chất lượng môn học, dần dần cải thiện những tồn tại trong cách làm bài văn nghị luận của học sinh.

II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm

1. Thực trạng

Luyện làm văn nghị luận là một vấn đề cần được chú trọng rèn luyện cho học sinh cấp trung học cơ sở. Các em có một chuỗi  bài kiểm tra trong khối THCS về văn nghị luận. Vì vậy, vai trò của người giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng hành văn nghị luận  cho các em từ lớp 7 là rất quan trọng, đòi hỏi giáo viên tình yêu, tâm huyết với nghề. 

Tuy nhiên, thực tế việc rèn kỹ năng làm văn nghị luận ở các nhà trường THCS, nhất là ở lớp 7 còn nhiều lúng túng.

1.1.Về học sinh:

Lần đầu tiên các em được làm quen với văn nghị luận và là kiểu bài văn khó, nặng đối với học sinh lớp 7. Các em phải học nhiều môn và chỉ chú trọng việc học trên lớp cho xong chương trình. Việc chuẩn bị cho giờ luyện nói, luyện tập lập luận học sinh thường chuẩn bị sơ sài, hời hợt, chỉ mang hình thức đối phó.

Mỗi khi nhận đề kiểm tra, học sinh còn lúng túng. Những lúc đó các em thường dựa dẫm, lệ thuộc vào tài liệu tham khảo mà không chú ý đề văn đó yêu cầu như thế nào.

Ở bài làm văn của các em còn lan man, chưa biết xác định luận điểm chính, chưa biết chia đoạn và lập luận cho bài văn, dẫn chứng chưa sát với yêu cầu đề bài. Đặc biệt, bài văn nghị luận giải thích của học sinh chưa có sức thuyết phục vì các em chưa nắm được bản chất, phương pháp giải thích.

   Trên thực tế, ở địa bàn nông thôn và miền núi, do điều kiện chủ quan và khách quan, khả năng làm bài văn nghị luận của các em còn nhiều hạn chế. Thực tế giảng dạy tôi thấy: Chỉ được 30% học sinh biết triển khai, giải thích, lập luận vấn đề nghị luận, viết đúng yêu cầu về nội dung và hình thức. Số còn lại, các em viết sơ sài, lủng củng, có bài viết rất  dài thì  sa vào lan man, nhớ gì viết nấy. Nguyên nhân sâu xa là các em chưa có ý thức suy ngẫm, liên hệ, giải thích vấn đề nghị luận.

    Hiện nay, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn đổi mới đã chú ý đến tiết luyện tập, điều này, tạo cho học sinh khả năng lập ý, lập luận ở nhà. Nhưng việc chuẩn bị bài của học sinh chỉ qua loa, chiếu lệ. Đến lớp giáo viên lại phải dành thời gian định hướng lại cách lập ý cho học sinh, chưa có nhiều thời gian để rèn kĩ năng, hướng dẫn học sinh thực hành nên mục tiêu dạy học chưa được đáp ứng.

1.2. Về giáo viên:

Người dạy chưa chú trọng đến việc rèn kỹ năng cho học sinh. Thông thường, giáo viên nghĩ: Học sinh làm văn nghị luận yếu là do khó, có thể tiến bộ dần ở lớp 8, 9 .

Giáo viên chưa có kinh nghiệm dạy phân môn Tập làm văn, bởi phân môn này rất khó. Nhiều giáo viên có quan điểm là coi trọng giờ đọc hiểu hơn phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn, cho nên việc đầu tư còn bị coi nhẹ.

2. Kết quả của thực trạng

Kết quả chấm bài Tập làm văn số 6 (văn nghị luận giải thích) Lớp 7A, 7B trường THCS … năm học ………….như sau:

Lớp Số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
7A 27 02 7,4% 5 18,5% 16 59,3% 4 14,8% 0 0
7B 22 0 0 1 4,5% 11 50% 9 40,9% 1 4,5%

  Nhìn vào bảng số liệu khảo sát ta thấy: Số học sinh làm được và làm tốt bài văn nghị luận giải thích rất ít. Những bài làm chưa đạt yêu cầu, các em thường mắc những lỗi cơ bản sau:

  – Bài văn chưa sát với đề bài, lập luận chưa chặt chẽ, giải thích vấn đề còn sơ sài.

  – Bài làm lan man, chưa đủ ý.

  – Hành văn còn lủng củng, chưa có sức thuyết phục.

  – Sau giải thích, học sinh chưa biết liên hệ, đánh giá.

   Vì vậy, để rèn tốt kỹ năng làm bài nghị luận giải thích cho học sinh lớp 7 đòi hỏi giáo viên phải sắp xếp thời gian để hướng dẫn, rèn kĩ năng cho học trò; tranh thủ thời gian của các giờ tự chọn, các giờ ôn luyện, phụ đạo; lên phương án khoa học để cùng với học sinh khám phá, giải quyết các dạng đề cơ bản một cách bài bản và đúng hướng.

III. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề.

1.  Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm chung của văn nghị luận.

 Trước hết, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm sau của văn nghị luận.

Nghị luận là loại văn bản viết ra nhằm phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức, đánh giá thái độ đối với cuộc sống bằng những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Nếu tác phẩm văn học nghệ thuật phát biểu ý kiến, bày tỏ thái độ đối với cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm thì văn nghị luận diễn đạt bằng những mệnh đề, phán đoán, những khái niệm có logic thuyết phục. [2]

Luận điểm, luận cứ, lập luận là các yếu tố then chốt của một bài văn nghị luận. Cần hướng dẫn cho học sinh nắm vững đặc điểm và bản chất của ba yếu tố này. Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của người viết được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất đoạn văn thành một khối. Luận điểm phải đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục. Luận cứ là lý lẽ và dẫn chứng được đưa ra làm cơ sở của luận điểm. Luận cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục. Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lý thì bài văn mới lôi cuốn người đọc. [2]

Trước khi bắt tay làm một đề văn nghị luận nói chung, bài văn giải thích nói riêng, học sinh phải hiểu rõ, nắm chắc các vấn đề lý thuyết có tính chất then chốt đó. Con đường để nắm vững lý thuyết này là cho học sinh học theo mẫu và thực hành từng phần. Các văn bản mẫu được lựa chọn ngay trong sách giáo khoa như Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Hồ Chí Minh, Sự giàu đẹp của Tiếng Việt của Đặng Thai Mai, Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng. Đây là những văn bản được tích hợp phần Đọc – hiểu đồng thời cũng là những bài văn nghị luận mẫu mực đáng để học sinh học tập.

2. Rèn cho học sinh nắm vững yêu cầu, bố cục của bài văn nghị luận giải thích.

 Yêu cầu này áp dụng cho cả người dạy và người học vì những mục đích nhất định: Hiểu đúng kiểu bài nghị luận và viết đúng nghị luận giải thích. Lập luận giải thích cần hiểu ở các khía cạnh: Giải thích là giảng giải cho cặn kẽ, chú thích thêm sáng tỏ. Kiểu bài nghị luận giải thích là kiểu bài trình bày các lý lẽ để giảng giải có kèm theo dẫn chứng cần thiết cho lí lẽ thêm vững chắc, giúp người đọc hiểu rõ thêm vấn đề đã nêu ra

Trong chương trình, tiết học 104 tuy có lý thuyết chung cho nghị luận giải thích nhưng còn rất đơn giản, chung chung. Ngoài những điều sách giáo khoa trình bày về nghị luận giải thích như: Nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh, đối chiếu với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi hại của vấn đề…làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng đạo lí, phẩm chất, quan hệ… giáo viên cần giới thiệu  thêm một số điều cần lưu ý khi làm văn nghị luận giải thích( nên dạy ở những buổi học ôn) để các em nắm rõ hơn vấn đề, trước khi thực hiện tạo lập văn bản.

Vậy, yêu cầu trước khi làm bài văn nghị luận giải thích là gì? người dạy cần giúp học sinh cần nắm được:

Trước hết, phải xác định đúng vấn đề cần giải thích, tránh tình trạng nói chung chung quanh đề bài. Muốn vậy, cần phải học nhiều, đọc nhiều, vận dụng tổng hợp các thao tác giải thích cho phù hợp.

Phải phát hiện vấn đề của đầu bài có những khía cạnh cần giải thích (hoặc có những từ, khái niệm nào cần giảng giải) mối quan hệ giữa các khía cạnh đó

Có một hệ thống lí lẽ kèm theo dẫn chứng cần thiết để giảng giải cho cặn kẽ vấn đề cần giải thích. Bài văn giải thích phải mạch lạc, lớp lang, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Không nên dùng những điều không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu. 

Trong phép lập luận giải thích, dẫn chứng khác với lập luận chứng minh ở chỗ:

+ Về mục đích và mức độ, dẫn chứng chỉ đóng vai trò phụ trợ, bổ sung, làm nổi bật một số lí lẽ.

+ Về số lượng, nó ít hơn hẳn và không cần liên tục, thường xuyên, liền mạch.

+ Trong giải thích thường có chứng minh và ngược lại, trong chứng minh, cũng cần phải giải thích.

Người dạy cần tìm hiểu kỹ vấn đề giải thích cho kĩ hơn, phải đi từ cái sâu xa đến cái cụ thể, rõ ràng. Những tri thức này có lẽ chưa thể có được ở học sinh. Chúng ta dùng hai ví dụ sau đây để làm rõ mục đích, yêu cầu của văn giải thích.

Ví dụ: Cho đoạn văn: “ Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kỳ lịch sử.” ( Sự giàu đẹp của tiếng Việt – Đặng Thai Mai  trang 49 sách Cánh Diều tập 2) [2]

Đây là một đoạn văn giải thích rất hay, đặc sắc. Vấn đề cần giải thích là vẻ đẹp của tiếng Việt. Là vấn đề trừu tượng, rất khó làm rõ. Bởi vậy, tác giả chọn cách giải thích gián tiếp từ nguồn gốc, từ những nguyên nhân tạo ra vẻ đẹp đó. Đó là cách giải thích rất thông minh, sáng tạo. Đặng Thai Mai đúng là bậc thầy trong việc giải thích.

Như vậy, chúng ta có thể đưa ra kết luận về yêu cầu của giải thích: Người ta có thể giải thích bằng nhiều cách, có thể  giải thích bằng trực tiếp, có thể bằng gián tiếp. Có những vấn đề có thể dùng tư liệu có sẵn để giải thích, nhưng cũng có những vấn đề trừu tượng( như đoạn văn của Đặng Thai Mai) thì cần sự thông minh, đưa ra lý lẽ phù hợp để giải thích vấn đề. 

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)