SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn theo bộ sách Kết nối tri thức (W+PPT)

4.5/5

Giá:

200.000
Cấp học: Tiểu học
Môn: Toán
Lớp: Lớp 3
Bộ sách: Kết nối tri thức
Lượt xem: 1029
File:
TÀI LIỆU WORD
Số trang:
27
Lượt tải:

4

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn theo bộ sách Kết nối tri thức (W+PPT)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán có lời văn
2. Củng cố các bước giải thông qua hệ thống bài tập
3. Hướng dẫn học sinh tự xây dựng một đề toán mới
4. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập
5. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, phụ huynh học sinh để giúp học sinh học giải toán có lời văn tốt hơn

Mô tả sản phẩm

  • I. MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài

    Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn học ở tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, nó là chìa khoá rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp môn Toán ở các bậc học tiếp theo. Đồng thời môn Toán còn có khả năng như phát triển tư duy lôgic, những thao tác trí tuệ cần thiết giúp con người trong hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả như mong muốn..

     Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.

    Bước vào năm học mới, sau khi nhận học sinh một vài tuần, các nề nếp đang được ổn định dần, song song tiến hành ôn tập toán, ôn luyện lại kiến thức đã học, nhanh chóng giúp các em củng cố sau hai tháng nghỉ hè.

    Qua kiểm tra ôn tập hằng ngày, lớp tôi có một số học sinh chưa thực sự ham học phần toán giải có lời văn, và tiết học thụ động, lười, ít chú ý môn học. Vì vậy, tôi áp dụng một số biện pháp mà những năm qua tôi thực hiện có kết quả. Trăn trở trước đối tượng học sinh chưa ham học toán có lời văn. Vì vậy các em không chủ động trong học tập mà còn ham chơi làm ảnh hưởng đến chỉ tiêu học tập của lớp. Trong phương pháp học mới của chương trình tiểu học hiện nay lại coi trọng việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, cần tổ chức nhiều hình thức học tập thu hút học sinh. 

    Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp ở khối 3, tôi thấy giải toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong nội dung môn Toán ở trường tiểu học. Vì vậy đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích lũy nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp .

    Là một giáo viên đã có nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 3, qua kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi đã rút ra được: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3 nói riêng.

    2. Mục đích nghiên cứu

    – Nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là: Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn rất kém                                                                                                                                 Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh học tốt môn Toán, để giải được các bài toán có lời văn trong chương trình đổi mới sách giáo khoa Toán lớp 3.

    – Khách thể là học sinh lớp 3 do tôi phụ trách.

    3. Đối tượng nghiên cứu

    – Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa toán 3.

    – Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu toán.

    – Nghiên cứu những biện pháp, phương pháp giáo dục hay phù hợp để khắc sâu kiến thức, hình thành thói quen, giúp học sinh nắm và để học tốt môn Toán.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    Trong đề tài này tôi sử dụng phối kết hợp các nhóm phương pháp dạy học như sau:         

    – Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 3.

    – Phương pháp quan sát.

    – Phương pháp điều tra.

    – Phương pháp thực hành luyện tập.

    – Phương pháp tổng kết.

    II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

    1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

    Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những mối quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.

    Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em  nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.

    Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận logic. Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc.

    Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.

    Việc đặt lời giải là một khó khăn lớn đối với một số em học sinh. Các em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?…Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải…Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.

    Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng và trong môn toán 3 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.

    2. Thực trạng về kỹ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 3

    2.1. Thực trạng chung của nhà trường

    1. Thuận lợi

    – Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ huynh học sinh.

    – Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và học sinh.

    – Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ 

    – Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.

     Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn gặp phải không ít khó khăn.

    1. Khó khăn

     – Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học tập của các em.

    – Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.

    – Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.

    – Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết bị dạy và học chưa đáp ứng được việc đổi mới phương pháp dạy học.

    – Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.

    2.2.  Thực trạng của lớp

    Năm học ………..tôi được phân công giảng dạy lớp 3….

    Lớp 3… do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 30 học sinh, trong đó: 

    – Con cán bộ công chức: 5 em.

    – Con gia đình nông nghiệp: 25 em.

    – Nam: 20 em; nữ: 10 em.

    – Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều học sinh ở xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.

    – Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:

    + Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với một số học sinh đọc hiểu còn chậm. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn chậm chạp…

    + Thực tế trong một tiết dạy 35- 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều, phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chưa thành thạo việc đọc đề toán.

    2.3. Thực trạng của dạy và học

    Như chúng ta đã biết giải toán lớp 3 là sự tiếp tục của chương trình lớp 2 nhưng mức độ cao hơn. Đó là loại bài giải: tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về đơn vị và một số bài toán nội dung hình học… Mức độ yêu cầu giải toán ở lớp 3 cao hơn, đó là ở lớp 2 học sinh đã biết được các bước phải thực hiện khi tìm cách giải bài toán và trình bày bài giải.Toán lớp 3 củng cố lời văn cho mỗi phép tính, đặc biệt là kĩ năng giải toán tổng hợp. Nâng số lượng phép tính đề giải bài toán có đến hai bước tính. Học thêm cách tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông. Ở tiểu học các bài toán giải có vị trí rất quan trọng, kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá trước hết quá khả năng giải toán, biết giải thành thạo các dạng toán cũng là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ học toán của mỗi học sinh. Nhưng thực tế khi gặp các bài toán có lời văn, học sinh thường lúng túng, không biết định hướng, tìm tòi phương pháp giải mặc dù các em nắm rất vững các kiến thức về phép cộng, trừ, nhân, chia… Khi giải toán có lời văn hầu hết các em chưa nắm rõ dữ kiện và yêu cầu đề toán, chưa biết lựa chọn phép tính và lời giải phù hợp, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra mối liên hệ giữa các dữ liệu trong bài toán để giải được bài toán. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần dạy học linh hoạt theo hướng tự chủ, phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh. Tổ chức dạy học nhẹ nhàng sẽ mang lại hiệu quả, không gò bó áp đặt luôn gây hứng thú cho các em học tập để đạt chuẩn kiến thức kĩ năng. 

    Trong nhiều năm theo dõi học sinh học môn Toán, đặc biệt là năm nay, tôi trực tiếp theo dõi các em học sinh lớp 3 giải toán nói riêng, tôi thấy các em có một thói quen không tốt cho lắm đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, cho nên, khi trả bài các em mới biết là mình sai.

    2.4. Kết quả khảo sát việc giải toán đầu năm

    Tôi đã khảo sát việc giải toán của 30 học sinh lớp 3… và thu được kết quả như sau:

    Bài toán: Có 20 lít dầu rót vào các can, mỗi can 4 lít. Hỏi có mấy can dầu?

    Sĩ số Giải thành thạo Giải chậm Chưa nắm được cách giải
    30 em     11 em = 36,6 %     11 em = 36,6 %         8 em = 26,8%                  

    Qua khảo sát tôi thấy tỉ lệ học sinh chưa nắm được cách giải còn quá cao chiếm 26,8%, học sinh giải thành thạo còn thấp chỉ đạt 36,6%. Lí do là học sinh viết lời giải còn lủng củng, sai lời giải, sai danh số giữa can dầu và lít dầu. Từ thực trạng trên, để học sinh giải toán có lời văn thành thạo đạt mức cao hơn và không còn học sinh chưa nắm được cách giải, viết lời giải đúng, danh số chính xác và giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy và tổ chức các hình thức dạy học phù hợp.                                 

    * Nguyên nhân: 

    – Về giáo viên: Còn chủ quan, chưa chú trọng các khâu trong hướng dẫn giải cho học sinh. Chưa khắc sâu và so sánh cho học sinh cách giải của các dạng toán này.

    – Về học sinh: Do phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng toán. Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về các dạng toán nên sự sai đó không tránh khỏi. Còn nữa, đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em quên mất phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra rất đáng tiếc.

    Xuất phát từ tình hình thực tế của những năm học trước, tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy dạng toán này để dạy ở khối 3 ngay từ đầu năm học ………… Mục đích chính giúp các em có phương pháp giải toán, làm cho các em biết chủ động thực hiện giải toán không máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp từ bản thân.

    3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

    3.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán có lời văn 

    Với kết quả đáng báo động, trên việc tìm một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải toán có lời văn. Được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường cùng với những kinh nghiệm rút ra trong quá trình dạy học tôi đã tiến hành giảng dạy và hướng dẫn học sinh giải toán thông qua các trình tự sau:

    – Đọc và nghiên cứu kĩ đề bài.

    – Phân tích và nhận dạng bài toán.

    – Tìm phương pháp giải.

    – Tóm tắt bằng phương pháp thích hợp.

    – Thiết lập trình tự và thực hiện bước tính.

    Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán  thì chúng ta không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán là một yếu tố không kém phần quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt.

    Chúng ta đã biết học sinh lớp 3, đặc biệt là một số em việc học tập chưa hoàn thành, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng Việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập đề ra.

    Qua thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng suy luận của học sinh còn kém. Học sinh chưa có kỹ năng phân tích, tổng hợp trước một đề toán. Khả năng chuyển bài toán hợp về các bài toán đơn còn yếu. Khi giải toán các em chưa tập hợp được kiến thức, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Điều đáng chú ý ở đây là cách đặt lời giải cho phép tính, rất nhiều em chưa biết cách đặt lời giải hoặc lời giải đặt chưa hợp lý. Do các em không được uốn nắn, luyện tập nhiều trong quá trình học.

    Như vậy nguyên nhân cơ bản dẫn đến các em không làm được bài làm là: Năng lực tư duy của các em phát triển không đồng đều, khả năng suy luận còn rất kém. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết toán có bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.

    Ví dụ: Bài 4b trang 10 sách Kết nối tri thức với cuộc sống lớp 3 tập 1.

    “Ở một trường học, khối lớp Ba có 142 học sinh, khối lớp Bốn có ít hơn khối lớp Ba 18 học sinh. Hỏi: cả hai khối lớp có bao nhiêu học sinh?”

    – Yêu cầu học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:

    Khối lớp 3 có :          142.

    Khối lớp 4 có:         ít hơn 18.          

    Hỏi cả hai khối lớp: … học sinh?

     – Tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh tìm lời giải:

      + Nhìn vào đề bài ta thấy muốn tìm số học sinh ở cả hai khối lớp trước hết ta phải tính gì?

    (Tính số học sinh khối lớp 4). 

    Yêu cầu học sinh nêu miệng lời giải:

    Khối lớp 4 có số học sinh là:

    Học sinh nêu miệng phép tính: 142 – 18 = 124 (học sinh)

    Yêu cầu học sinh nêu miệng tiếp lời giải và phép tính thứ hai:

                  Cả hai khối lớp có số học sinh là:

                           142 + 124 = 266 (học sinh)

    Tuy nhiên ở phép tính thứ hai, tôi thấy có một số em thực hiện tìm số học sinh cả hai khối lớp bằng cách lấy 142 + 18 = 160 (học sinh).

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Lớp 3
Tiếng Việt
4.5/5
TÀI LIỆU WORD

200.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)