SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục ý thức tự học góp phần nâng cao hiệu quả học tập, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường THCS
- Mã tài liệu: MT0337 Copy
Môn: | Quản lí |
Lớp: | |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 439 |
Lượt tải: | 3 |
Số trang: | 32 |
Tác giả: | Đặng Thị Thu Mai |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Hà Tân |
Năm viết: | 2022-2023 |
Số trang: | 32 |
Tác giả: | Đặng Thị Thu Mai |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường THCS Hà Tân |
Năm viết: | 2022-2023 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục ý thức tự học góp phần nâng cao hiệu quả học tập, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường THCS “ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
3.1. Biện pháp 1: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội về tầm quan trọng của việc chỉ đạo ý thức tự học.
3.2. Biện pháp 2: Chỉ đạo đổi mới sinh hoạt lớp theo chủ đề trong đó có chủ đề giáo dục ý thức tự học.
3.3. Biện pháp 3: Đổi mới công tác quản lý về hoạt động tự học của học sinh
3.4. Biện pháp 4: Tập huấn cho giáo viên công tác hướng dẫn học sinh kỹ năng, phương pháp tự học.
3.5. Biện pháp 5: Tăng cường quản lý đổi mới phương pháp dạy học trên lớp của giáo viên và phương pháp học tập của học sinh.
3.6. Biện pháp 6: Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
3.7. Biện pháp 7: Động viên, khuyến khích, kích thích các hoạt động tự học của HS, thực hiện các HĐ NGLL hướng vào các điều kiện hỗ trợ hoạt động tự học.
3.8. Biện pháp 8: Xây dựng thư viện, phát triển văn hóa đọc cho học sinh.
3.9. Biện pháp 9: Tăng cường và đổi mới tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, qua đó giúp học sinh phát triển các phẩm chất, kỹ năng.
3.10. Biện pháp 10: Quản lý tự học trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và dạy học trực tuyến.
Mô tả sản phẩm
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm học 2019-2020; 2020-2021, đại dịch Covid-19 xuất hiện làm ảnh hưởng đến mọi hoạt động của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động dạy học. Học sinh trên cả nước đã phải nghỉ học một thời gian dài chống dịch. Để đáp ứng chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là “Ngừng đến trường nhưng không ngừng học” thì việc rèn luyện cho học sinh khả năng tự học là rất quan trọng và để việc tự học của học sinh có hiệu quả cao giáo viên cần có hướng dẫn, định hướng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong cách học phải lấy tự học làm cốt”. Tự học chính là thực chất của sự học, tự mình chủ động đến với tri thức và nâng cao tri thức ngoài phạm vi sách vở do nhà trường dạy cho. Việc nâng cao ý thức tự học giúp cho người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học. Từ đó quyết định sự phát triển các phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập của học sinh. Như vậy tự học là con đường gần nhất mở ra thế giới kỳ diệu cho sự nhận thức, khám phá và hành động. Thế nhưng trên thực tế hiện nay không ít học sinh không tự học mà dựa vào thầy cô ở các lớp học thêm, một số chưa biết cách tự học, một số chưa có ý chí nghị lực trong vấn đề tự học. Trước thực trạng đó, là một cán bộ quản lý chuyên môn của nhà trường, tôi thực hiện chỉ đạo một số biện pháp nâng cao ý thức tự học cho học sinh vừa trực tiếp vừa gián tiếp qua giáo viên hướng dẫn cách thức hoạt động để nâng cao hiệu quả học tập và hình thành cho các em phẩm chất, năng lực tự học hiệu quả.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của bản thân và nhu cầu hoạt động tự học hiện nay của học sinh THCS, tôi thực hiện sáng kiến với đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục ý thức tự học góp phần nâng cao hiệu quả học tập, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh tại trường THCS”
2. Mục đích nghiên cứu
– Nâng cao hiệu quả dạy học, giáo dục học sinh tạo sự hứng thú và phát huy được năng lực tự học sáng tạo cho học sinh.
– Chia sẻ đồng nghiệp về kinh nghiệm dạy học có hiệu quả.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
– Đánh giá thực trạng về công tác dạy học, công tác quản lý dạy học tại trường THCS
– Đề xuất cách thực hiện các biện pháp.
– Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tìm hiểu, đề xuất cách thiết kế các phương pháp, cách thức thực hiện tại các trường THCS trên địa bàn huyện tôi công tác.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Quá trình quản lý đối với hoạt động tự học của học sinh trường THCS.
Chủ thể quản lý hoạt động tự học gồm Ban giám hiệu, Tổ trưởng chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ môn, Cha mẹ học sinh và sự phối hợp các tổ chức chính trị – xã hội ở các địa phương có học sinh đang theo học tại trường THCS
6. Phương pháp nghiên cứu
– Quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu sản phẩm, so sánh giữa các số liệu thu được và nghiên cứu các tài liệu, thu thập thông tin liên quan.
– Phương pháp khảo sát: tiến hành khảo sát năng lực học và tự học học sinh, khảo sát các phương pháp, cách thức tiến hành, khảo sát kết quả đã đạt được…
– Phương pháp thống kê số liệu trong quá trình khảo sát.
– Phương pháp phân tích, phân loại: phân tích những nguyên nhân và những kết quả đạt được trong hoạt động dạy học.
– Phương pháp so sánh trong thực trạng vấn đề và so sánh kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
– Ngoài ra còn có các phương pháp như: thuyết trình, thực nghiệm…
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Học hay còn gọi là học tập, học hành, học hỏi là quá trình đạt được sự hiểu biết, kiến thức, hành vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và sở thích mới. Quá trình học tập diễn ra ở mọi nơi, mọi chỗ và với mọi người như Lê – nin đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi”. Học là việc góp nhặt và thu nhận kiến thức từ người khác truyền lại, rèn luyện thành kỹ năng, nhận thức. Các hình thức thu nhận kiến thức: Học ở trên lớp, học ở trường, học thầy, học bạn,..trong đó tự học là hình thức học tập quan trọng đối với con người. Bản chất của việc học là quá trình nghiên cứu chuyên sâu, mở rộng các vấn đề, lĩnh vực mà mình muốn biết giúp chúng ta trau dồi kiến thức, tăng sự sáng tạo, trí tuệ và vận dụng điều đó vào cuộc sống xã hội.
Tự học là việc chủ động tự mình tìm tòi nghiên cứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ năng. Tự học có thể hình thành từ việc tự bản thân nghiên cứu tìm hiểu mà không nhờ vả hay trông chờ vào bất cứ ai. Hoặc tự học còn có thể được hiểu là chúng ta dựa vào kiến thức được thầy cô giáo hoặc người đi trước cung cấp để dựa vào đó hình thành những bài học cho riêng mình. Từ xưa đến nay các bậc anh tài đã cho thấy việc tự học có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tri thức của con người.
Tự học giúp con người có thể hiểu biết, lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện, hứng thú với các vấn đề trong sách vở, trong cuộc sống. Con người được tự làm chủ, quyết định vấn đề mà bản thân thích và nghiên cứu chúng. Tự học giúp con người ghi nhớ một cách lâu hơn do có sự chuẩn bị tìm tòi các kiến thức ấy. Tự học còn giúp việc vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn vào cuộc sống để làm những việc có ích và thiết thực. Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân. Không chỉ vậy tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực. Người có tinh thần tự học luôn chủ động, tự tin trong cuộc sống. Hiện nay thì hình thức tự học rất được đề cao, tự học được xem là hình thức học hiện đại. Kiến thức dựa trên sự chủ động nghiên cứu của người học chứ không phụ thuộc vào thầy cô. Nói như vậy không có nghĩa việc tự học thay thế cách học truyền thống mà con người cần tự học có hướng dẫn; bổ sung kết hợp để đạt được kết quả tuyệt vời. Đặc biệt trong thời đại 4.0 ngày nay càng chứng minh là hiệu quả, tiện lợi và nhanh chóng, nhờ vào sự phát triển của internet.
Nói đến học tập là nói đến hình thức dạy – học và tự học. Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Xét cho cùng trong quá trình dạy học là giúp học sinh tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp ứng với các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự học gắn với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau.
Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn…Các thế hệ cha ông chúng ta đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nỗ lực học tập và tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng của Người về giáo dục đã được vận dụng quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học…nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu người học”. “Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả của giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của người học, khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Như vậy, từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục.
Mục đích của phương pháp này là chỉ đạo một số nội dung chuyên môn đến giáo viên và yêu cầu thực hiện. Đồng thời tạo điều kiện cho HS có phương pháp tự học được dễ dàng và tận dụng điều kiện có một số thời gian làm việc với GV để tranh thủ sự hướng dẫn của GV mà rèn luyện phương pháp, kĩ năng tự học, việc nắm vững kiến thức, rèn luyện năng lực. Như vậy nội dung của phương pháp sẽ bao gồm hoạt động của ban chuyên môn chỉ đạo GV và GV hướng dẫn, tổ chức cho học sinh thực hiện.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng về khả năng tự học của học sinh nhà trường và việc hướng dẫn chỉ đạo GV định hướng cách thức tự học cho học sinh.
– Đội ngũ đa phần trẻ, nhiệt huyết, học sinh đa số chăm ngoan, hiếu học, tuy nhiên nhiều giáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong việc giáo dục ý thức tự học cho học sinh.
– Thói quen thụ động trong quá trình học tập; quen nghe, ghi chép, nhớ và tái hiện lại những gì giáo viên nói.
– Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học, nên kiến thức của hầu hết học sinh tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã học một cách hệ thống, khoa học và hầu như không vận dụng được kiến thức.
– Giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học) đa số học sinh không thực hiện được.
– Sự quan tâm đến giáo dục toàn diện cho học sinh thông qua hình thức tự học chưa đúng mức.
2.2. Thực trạng của giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học)
Hoạt động tự học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi học sinh biết cách quản lý hoạt động tự học thông qua việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học, có nghĩa là phải lượng hóa cho được thời gian tự học tương ứng với từng nhiệm vụ học tập của bản thân. “Thành công phụ thuộc 4% kiến thức, 26% kỹ năng và 70% thái độ”. Thái độ chiếm tỷ lệ phần trăm thành công là rất cao, vậy muốn có thái độ nghiêm túc thực hiện mục tiêu cần phải lập ra kế hoạch cụ thể, khoa học phù hợp để thực hành hiệu quả.
– Thực trạng việc lập kế hoạch tự học của học sinh: Muốn mang lại hiệu quả cao trong học tập điều quan trọng nhất là phải chọn đúng trọng tâm công việc, phải lập kế hoạch học tập hợp lý của từng học sinh. Nội dung cần học thì nhiều mà sức lực con người và thời gian thì có hạn. Do đó, học tập không theo kế hoạch sẽ không có hiệu quả. Mỗi học sinh phải tự xác định cho mình học cái gì là chính, là quan trọng nhất và có tác động đến mục đích. Khi xác định được trọng tâm, cần phải sắp xếp việc học cho hợp lý về nội dung và thời gian học là rất quan trọng. Nhưng trong thực tế hầu như học sinh ở trường THCS ít chú ý nên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tự học nói riêng và kết quả học tập nói chung. Hầu như các em nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự học, nhưng các em chưa có kỹ năng lập kế hoạch tự học. Do đó, hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch tự học cho học sinh là một vấn đề mà giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm.
– Thực trạng về hình thức tự học ngoài giờ lên lớp
Qua điều tra có 74% HS tự học một mình. Trong đó có một số tự học theo ngẫu hứng, một số có vạch kế hoạch học môn gì và nội dung tự học do chính bản thân tự xác định. Tự học theo hình thức này có rất nhiều em gặp nhiều câu hỏi không trả lời được và mất nhiều thời gian để tìm câu trả lời, có lúc bế tắc, gián đoạn việc tự học và không hứng thú.
Có 53% HS học theo nhóm bạn, thảo luận những vấn đề về môn học mà cá nhân không tự giải quyết được. Hình thức này đã mang lại hiệu quả và phát huy cao tính tổ chức, kỷ luật. Kết quả mang lại là các bạn trong nhóm hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn các vấn đề cần giải quyết của bài học cũng như rèn luyện được tính độc lập, tự chủ và hợp tác nhóm.
Thực tế cho thấy HS có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học môn đó, chứ chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không có ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học và không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của HS.
– Thực trạng về tiến trình thực hiện hoạt động tự học và thời gian tự học:
Đánh giá thực trạng tiến trình tự học
TT | Tự học của HS được tiến hành | Mức độ | ||||||
Thường xuyên | Không thường xuyên | Không bao giờ | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | |||
1 | Học vào lúc sáng sớm | 364 | 41 | 426 | 48 | 98 | 11 | |
2 | Học vào lúc rảnh rỗi | 675 | 76 | 124 | 14 | 89 | 10 | |
3 | Học vào lúc đêm khuya | 89 | 10 | 533 | 60 | 266 | 30 | |
4 | Học khi chuẩn bị kiểm tra và thi | 764 | 86 | 115 | 13 | 09 | 1 | |
5 | Ngày sau có giờ, có bài liên quan | 586 | 66 | 240 | 27 | 62 | 7 |
Qua bảng khảo sát, chúng ta thấy rằng có đến 86% HS sử dụng thời gian tự học khi chuẩn bị cho kiểm tra, thi cử; có đến 76% tự học khi rảnh rỗi và 66% tự học khi ngày sau có giờ, bài liên quan là thường xuyên. Bên cạnh đó, có đến 10% là không bao giờ học lúc rảnh rỗi và 1% không bao giờ học khi chuẩn bị thi và kiểm tra. Điều này cho thấy một số em hầu như không có ý thức tự học ngoài giờ lên lớp và không có sự quan tâm nhắc nhở của mọi người trong gia đình. Qua trao đổi với một số giáo viên, đa số cho rằng việc sử dụng quỹ thời gian cho hoạt động tự học hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet… và có chăng tự học chỉ đủ để nhằm đối phó với kiểm tra và thi cử.
+ Những HS khá, giỏi thì việc tự học ở nhà cũng như trên lớp hay học thêm đều đạt mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng tư duy chỉ tập trung ở các em có học lực giỏi. Tính tự lập trong học tập của các em là rất cao, biết cách tự học trong mọi hoàn cảnh, chịu khó suy nghĩ và tích cực học tập.
+ Đa phần HS còn thụ động, không chịu khó suy nghĩ, thời gian dành cho học thêm quá nhiều mà lại không tích cực trong học tập. Nhiều HS chạy theo phong trào học thêm với bạn bè nhưng không có mục đích, không tự mình vận dụng trí tuệ, tri thức để giải quyết các bài tập cũng như không có thời gian để hấp thu bài giảng trên lớp. Sự ỷ lại trong học tập nhờ vào học thêm ở các thầy cô, mong muốn trúng tủ khi kiểm tra đạt điểm cao mà không quan tâm đến hoạt động tự học của bản thân. Điều này, làm cho các em không nắm chắc kiến thức, sự hổng kiến thức càng ngày càng tăng lên.
– Khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của học sinh
Sử dụng phiếu hỏi 888 HS và trao đổi trực tiếp với một số HS:
Mức độ sử dụng phương pháp tự học của học sinh
TT | Mức độ sử dụng phương pháp | Mức độ | |||||
Thường xuyên | Thỉnh thoảng | Chưa bao giờ | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | ||
1 | Đọc tài liệu tham khảo và SGK | 759 | 85,5 | 129 | 14,5 | 0 | 0 |
2 | Học thuộc lòng bài giảng | 767 | 86.4 | 121 | 13.6 | 0 | 0 |
3 | Vận dụng kiến thức để giải bài tập | 286 | 32,2 | 448 | 50,4 | 154 | 17,4 |
4 | Hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức | 156 | 17,5 | 537 | 60,5 | 195 | 22 |
5 | Làm đề cương và học theo đề cương | 148 | 16,7 | 607 | 68.3 | 133 | 15 |
6 | Tự kiểm tra quá trình đánh giá tự học | 140 | 15,8 | 448 | 50,4 | 300 | 33,8 |
Qua bảng điều tra, cho thấy rằng, hầu hết HS đều biết sử dụng phương pháp tự học theo nhiều cách khác nhau. Trong đó, các phương pháp được sử dụng thường xuyên nhiều nhất là học thuộc lòng bài giảng trước khi lên lớp chiếm đến 86,4% và tất cả các môn HS đều học thuộc lòng mà không vận dụng tư duy trong tự học. Phương pháp đọc tài liệu tham khảo và sách giáo khoa thường xuyên chiếm tỷ lệ 85,5% và HS cho rằng tất cả các môn học đều chứa dung lượng kiến thức nhiều trong lúc thời lượng của môn học trên lớp không tiếp thu đầy đủ được. Bên cạnh đó, sự phân ban, phân hóa, môn học tự chọn và cách viết sách giáo khoa của các ban rất khác nhau khó hiểu. Đối với phương pháp vận dụng kiến thức để giải bài tập có 32,2% HS thường xuyên thực hiện, nhưng tìm hiểu một số HS thì chỉ tập trung làm bài tập ở trong sách giáo khoa theo yêu cầu của GV mà chưa làm thêm các bài tập ở sách bài tập. Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và học theo đề cương, tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học chỉ sử dụng thỉnh thoảng. Những phương pháp này chỉ được sử dụng chủ yếu khi kiểm tra giữa kỳ, thi học kỳ và một số em là chưa bao giờ sử dụng các phương pháp này chiếm 15%. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số động HS chưa chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích, tổng hợp các vấn đề của bài học để nắm lấy cốt lõi, trọng tâm qua từng bài học.Qua trao đổi một số HS có học lực khá trở lên các em đưa ra một số nhận định:
– Đối với các môn tự nhiên thì GV giảng dạy yêu cầu tự học cao quá nên phải đi học thêm và không còn thời gian để tự học.
– Đối với các môn xã hội thì chỉ cần học thuộc bài trước khi đến lớp và soạn bài như sách giáo khoa là đủ và chỉ học đối phó khi chưa có điểm miệng mà thôi. Còn đối với những HS trung bình – yếu thì các em do hổng kiến thức, trong khi lên lớp thì GV chỉ tập trung hoàn thành tiết dạy mà chưa có sự động viên khuyến khích cũng như giúp đỡ. Nên không có hứng thú trong từng môn học và không quan tâm đến kết quả học tập của mình. Qua trao đổi với một số GV hầu hết cho biết HS có học bài ở nhà, làm bài theo yêu cầu của GV nhưng chỉ nhằm đối phó khi kiểm tra. Phần lớn HS chỉ học thuộc những phần mà được ghi chép ở trong vở hay trong sách giáo khoa. Những vấn đề yêu cầu cần mở rộng về phân tích, tổng hợp hay vận dụng kiến thức để chứng minh diễn giải một vấn đề thì HS lúng túng, chỉ có vài em có được khả năng này. Tất cả các bộ môn học thì HS chỉ có thói quen học thuộc lòng. Phần lớn HS chưa gắn kết giữa lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực hành bộ môn. Các hoạt động tự nghiên cứu ít được HS sử dụng.
Từ thực trạng này, giáo viên cần phải có những yêu cầu học sinh một số quy định về học tập bộ môn nhằm từng bước xây dựng nề nếp và thói quen tự học. Những quy định về nề nếp tự học có khá nhiều. Ở đây, chỉ đề cập những vấn đề chủ yếu, có tính nguyên tắc, được coi như tổ chức, phương pháp, biện pháp có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình học tập của học sinh.
2.3. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học
Mục đích của việc hướng dẫn học sinh tự học là tạo điều kiện cho HS tự học được dễ dàng và tận dụng điều kiện có một số thời gian làm việc với GV để tranh thủ sự hướng dẫn của GV mà rèn luyện phương pháp, kĩ năng tự học, việc nắm vững kiến thức, rèn luyện năng lực.
GV hướng dẫn HS cách sử dụng tài liệu. HS theo hướng dẫn trong tài liệu mà tự lực hình thành kiến thức, kĩ năng,..
GV sử dụng những giờ lên lớp để rèn luyện cho HS kĩ năng, kĩ xảo tự học, đánh giá kết quả, điều chỉnh kế hoạch. Như vậy, trong cách dạy học này có hai kiểu hướng dẫn được phối hợp với nhau.
+ Hướng dẫn bằng lời viết ngay trong tài liệu, đó là những chỉ dẫn về kế hoạch, về phương pháp giải quyết vấn đề, thu thập, xử lí thông tin… nhằm định hướng cho HS có thể tự lực thực hiện các hành động học một cách có ý thức, có phương hướng rõ ràng.
+ Hướng dẫn ngay tại lớp những loại hoạt động cụ thể để rèn luyện kĩ năng tự học. GV theo dõi giúp đỡ, uốn nắn, điều chỉnh ngay tại lớp.
3. Giải pháp thực hiện
3.1. Biện pháp 1: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội về tầm quan trọng của việc chỉ đạo ý thức tự học
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội về tầm quan trọng của việc chỉ đạo ý thức tự học nhằm nâng cao hiệu quả học tập, phát triển phẩm chất, năng lực tự học cho học sinh.
– Chi uỷ, Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường quán triệt, phổ biến các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo đến đội ngũ giáo viên qua các hình thức: Trên Website của nhà trường; qua các buổi sinh hoạt Chi bộ, họp Hội đồng giáo dục, trong các đợt học tập chính trị, học tập quán triệt nhiệm vụ năm học, sinh hoạt tổ chuyên môn, sinh hoạt đoàn thể …
– Có biện pháp quản lý phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện, mở rộng mối quan hệ với các cơ quan, đoàn thể trong khu vực, cha mẹ học sinh, tuyên truyền cho họ hiểu vai trò của giáo dục từ đó có quan tâm, chăm lo đến hoạt động giáo dục nói chung và hoạt động dạy học nói riêng.
– Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch tổ chức lao động khoa học trong công tác quản lý, trong hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên, trong các tổ chức đoàn thể của nhà trường và tạo mối liên kết giữa các cá nhân, tổ chức, các bộ phận dựa trên nguyên tắc khoa học, dân chủ và đoàn kết.
– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV theo quy định, yêu cầu của tình hình mới; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng với các cơ quan QLGD ở địa phương để làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng GV, CBQL, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ dạy học và giáo dục hiện nay.
– Đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, phong trào “Đổi mới sáng tạo trong dạy và học”.
– Xây dựng các tiêu chí thi đua của các đoàn thể và gắn công việc hàng ngày với các phong trào thi đua, các hội thi, hội giảng, các đợt thanh kiểm tra…
– Thường xuyên đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong nhà trường, tiếp nhận thông tin phản hồi có điều chỉnh kịp thời nhằm tăng hiệu quả công việc, tạo sự đồng thuận, cộng đồng trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức đối với việc thực hiện sứ mệnh chính trị của nhà trường.
– Phối kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động chuyên môn với công đoàn, tổ chức các hoạt động tập thể để gắn kết các thành viên. Bồi dưỡng cho đoàn viên công đoàn có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng; có đạo đức và lối sống lành mạnh; có tinh thần hợp tác.
3.2. Biện pháp 2: Chỉ đạo đổi mới sinh hoạt lớp theo chủ đề trong đó có chủ đề giáo dục ý thức tự học.
“Lãnh đạo là người tạo ra người hùng chứ không phải là người hùng”. Để làm được điều này trong sự nghiệp giáo dục cần xác định vai trò quan trọng của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp đó là “người hùng” thực hiện chiến lược “tạo ra người hùng”. Động lực là thứ giúp chúng ta bắt đầu, tập huấn tạo động lực, truyền cảm hứng cho cán bộ giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm truyền cảm hứng cho học sinh qua các hoạt động giáo dục, đặc biệt đổi mới tiết sinh hoạt lớp.
– Học sinh tự nhận phiếu và liệt kê những gì trong tuần mình học được, môn học yêu thích, môn học kém…
– Học sinh chia sẻ quá trình tự học của bản thân.
– Giáo viên nhận xét, đánh giá rút ra kết luận chung.
– Vấn đề cần đặt ra: Với yêu cầu cấp thiết làm sao xây dựng học sinh tự học linh hoạt, sáng tạo, giúp các em có cách tự học, tự nghiên cứu để đạt kết quả tốt. Do đó, với tư cách quản lý của nhà trường tôi chỉ tập trung và một số biện pháp quản lý đối với các hoạt động hình thành phương pháp và kỹ năng tự học cho HS trường THCS. Trong từng tiết học, nhiệm vụ của học sinh là phải tập trung học tập, phối hợp chặt chẽ với giáo viên xây dựng nề nếp tự học, ý thức học tập để cảm nhận một cách nhanh và tự tin trước lớp. Mạnh dạn đóng góp ý kiến, suy nghĩ của mình và tiết học sinh động. Để phát huy nề nếp tự học của học sinh trong giờ học chính khóa, phụ đạo, mỗi giáo viên phải thiết kế điều hành giờ dạy có khoa học logic theo hướng chủ động khám phá của HS, chính bản thân giáo viên phải chủ động và sáng tạo để khơi dậy sự hoạt động tích cực, sáng tạo của tất cả học sinh “tự học”. Nói chung người giáo viên tổ chức thao tác như thế nào để học sinh thực hiện được và vận dụng, chứ không chỉ đạo chung chung. Ngoài giờ học chính khóa, cần phải có sự quan tâm động viên của nhà trường – gia đình – xã hội để các em có sự phân bố thời gian tự học, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học một cách có ý thức và thường xuyên.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 5
- 131
- 1
- [product_views]
- 4
- 179
- 3
- [product_views]
- 2
- 142
- 5
- [product_views]
- 0
- 123
- 6
- [product_views]
- 6
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 189
- 8
- [product_views]
- 5
- 177
- 9
- [product_views]
- 6
- 124
- 10
- [product_views]