SKKN Một số biện pháp rèn kỹ luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3 Sách Chân Trời sáng tạo

Giá:
100.000
Môn: Tiếng Việt
Lớp: Lớp 3
Bộ sách: Chân trời sáng tạo
Lượt xem: 1289
Lượt tải: 5
Số trang: 21
Tác giả: Lê Thị Thu Hà
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Thị Định
Năm viết: 2022-2023
Số trang: 21
Tác giả: Lê Thị Thu Hà
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ giáo dục
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Thị Định
Năm viết: 2022-2023

Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Một số biện pháp rèn kỹ luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3 Sách Chân Trời sáng tạo” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

Biện pháp 1: Tiếp cận năng lực HS, khơi gợi HS tìm ra kiến thức mới
Biện pháp 2: Giúp học sinh hứng thú khi học tiết Tập làm văn qua bài giảng điện tử, phim hoạt hình
Biện pháp 3: Tổ chức tốt việc quan sát để trau dồi vốn từ
Biện pháp 4: Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức và sử dụng từ ngữ khi viết văn
Biện pháp 5:Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài
Biện pháp 6: Phối hợp với cha mẹ học sinh

Mô tả sản phẩm

  •  
  • ĐẶT VẤN ĐỀ


  • Lý do chọn đề tài:

Để tiến kịp sự tiến bộ của các nước trong khu vực và trên thế giới, đất nước ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Các nhà giáo dục vẫn luôn tìm tòi, nghiên cứu đổi mới nội dung chương trình giáo dục và phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao tính chủ động và trình độ nhận thức cho học sinh, tạo nên nền tảng xây dựng và phát triển cho các em, những chủ nhân tương lai của đất nước.

Trong nhà trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò vô cùng quan trọng. Dạy Tiếng Việt là dạy các em kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, cung cấp công cụ hữu hiệu giúp các em học tốt các môn khác và có khả năng giao tiếp trong cuộc sống. Hơn thế nữa, môn Tiếng Việt còn bồi dưỡng cho các em tính yêu tiếng mẹ đẻ, yêu thiên nhiên, yêu đất nước và con người Việt Nam. Việc rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh được thể hiện thông qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn. Trong đó Tập làm văn là phân môn có tính tích hợp cao về kiến thức cũng như kỹ năng mà học sinh đã lĩnh hội từ các phân môn khác. Đặc biệt đối với học sinh lớp 3, bài Tập làm văn của các em là sản phẩm của sự vận dụng tổng hợp các kiến thức và kỹ năng tiếp thu được trong quá trình học tập. Tập làm văn góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, luyện tư duy logic, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ, hình thành nhân cách của học sinh.

Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Rất ít học sinh làm bài Tập làm văn biết sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá cho câu văn sinh động, có hình ảnh. Các em viết theo văn mẫu không có sự sáng tạo, ngoài văn mẫu ra để tự viết thì các em viết rất lủng củng, câu văn rời rạc, không đạt yêu cầu. Vốn từ học sinh còn nghèo nàn dẫn đến việc sử dụng từ còn lặp, vụng, chưa đúng. Viết câu không đúng do chưa nắm chắc được cấu tạo câu. Hiện nay đa số học sinh “ngại” học phân môn Tập làm văn. Thực tế cho thấy nhận thức của cha mẹ học sinh cho đến các em đều cho rằng: chỉ cần học Tập đọc và viết Chính tả đúng là đạt yêu cầu môn Tiếng Việt, còn tập trung học Toán nhiều hơn để lên lớp trên theo học các môn Tự nhiên là chính. Là một giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi không khỏi băn khoăn lo lắng trước tình hình học sinh như vậy. Tôi rất mong muốn học sinh của mình ngay từ lớp 3 đã có ý thức biết viết văn đúng yêu cầu

và có sáng tạo. Chính vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu tài liệu và chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3” làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.

  • Phạm vi đề tài

Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu chuyện và nói, viết về một chủ đề có hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe hay làm bài văn nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

  • Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở trường Tiểu học hiện nay.
  • Nghiên cứu tìm ra một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng viết đoạn văn trong phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
  • Đối tượng nghiên cứu:

Kỹ năng viết đoạn văn ở phân môn Tập làm văn lớp 3.

  • Phạm vi nghiên cứu
      • Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh khối lớp 3 trường Tiểu học.
      • Địa bàn nghiên cứu: Trường Tiểu học …….
      • Thời gian nghiên cứu: Tháng 9/2021 – 3/2022
  • Đối tượng thực nghiệm: 

44 HS lớp 3A4, trường Tiểu học ……., quận ……. (năm học 2021- 2022).

  • Phương pháp nghiên cứu
  1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
    • Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu;
    • Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
  2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
    • Phương pháp điều tra;
    • Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
    • Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
    • Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
    • Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.

 

  • GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
  • Cơ sở lý luận.

Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng và ngây thơ nhất. Ở lứa tuổi này, nhận thức và kinh nghiệm sống cũng như vốn sống của các em còn nhiều hạn chế. Các em thích tìm hiểu những điều thân thuộc, gần gũi, gắn bó với thực tế đời sống hằng ngày của mình. Nhận thức của các em lúc này dừng lại ở nhận thức cảm tính. Thêm vào đó, trí nhớ của các em ở lứa tuổi này là dạng trí nhớ không bền vững. Các em tiếp thu một nguồn kiến thức, sau đó có thể nhớ một phần, thậm chí hoàn toàn không nhớ phần kiến thức mình đã được học.

Ở lứa tuổi vào học kỳ 1 của học sinh lớp 3, có thể nói là thời điểm giao hòa của lứa tuổi Tiểu học. Ở giai đoạn này, các em đã tích lũy cho bản thân mình một vốn kiến thức nhất định, sau quá trình học bậc Mầm non cũng như lớp 1 và lớp 2 ở bậc Tiểu học, cũng như vốn kiến thức và kinh nghiệm tích lũy từ gia đình, xã hội, thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, những nhận thức, kinh nghiệm của các em ở giai đoạn này cũng chỉ rất sơ khai, đơn thuần là những điều các em được học ở trường, hay là những điều các em được chứng kiến, tham gia, hay lĩnh hội được qua sự giáo dục của gia đình.

Vì vậy, ở lứa tuổi này, các em vẫn rất thích được tìm hiểu, được khám phá cuộc sống muôn hình vạn trạng xung quanh mình. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi ham khám phá, thích tìm hiểu, có nhu cầu rất lớn trong việc được lĩnh hội thêm tri thức để gia tăng vốn hiểu biết của mình. Có thể thấy một đặc trưng của trẻ em ở lứa tuổi này là luôn thích phô diễn những điều mình biết, và việc được ngợi khen khiến cho các em đặc biệt cảm thấy thích thú, tạo nguồn động lực rất lớn cho các em.

Trong quá trình học, các em sẽ hình thành cho bản thân mình các kỹ năng, kỹ xảo. Kỹ năng là khả năng vận dụng khái niệm để giải quyết các nhiệm vụ mới. Kỹ xảo là hoạt động đã được củng cố và tự động hóa. Có thể thấy, kỹ xảo là bậc cao hơn của kỹ năng. Và một trong những mục đích của hoạt động học là giúp học sinh phát triển trí tuệ. Phát triển trí tuệ là sự biến đổi về chất trong hoạt động nhận thức của con người, là sự biến đổi cấu trúc của cái được phản ánh và phương thức phản ảnh chúng. Vì vậy, giáo viên không chỉ dạy cho học sinh lý thuyết mà còn dạy cho học sinh các phương pháp để học tập, nghiên cứu hiệu quả. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho học sinh phát triển trí tuệ, giáo viên cần đảm bảo sự thống nhất giữa việc trang bị cho các em tri thức và phương pháp lĩnh hội tri thức đó, không được thiên lệch. Nếu thiên về dạy tri thức thì đó là     

cách dạy nhồi nhét. Nếu thiên về phương pháp sẽ dẫn đến tình trạng học sinh hổng kiến thức. Chính vì vậy, công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn – dạy sản sinh lời nói – là tạo được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia giao tiếp. Khi nghiên cứu hoạt động lời nói, người ta thấy rằng cái kích thích hành vi nói là cái gì đó nằm ngoài ngôn ngữ. Chính vì vậy, xét đến tận cùng, dạy Tập làm văn không phải bắt đầu từ hoạt động ngôn ngữ, từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ mà phải bắt đầu từ sự hoạt động khác của học sinh. Nói cách khác, những kích thích nói năng không thể tách rời những kỹ năng sống khác. Vì vậy, để dạy tốt Tập làm văn trước hết phải trau dồi vốn sống của học sinh, phải dạy cho các em biết suy nghĩ, tạo cho các em cảm xúc, tình cảm rồi mới dạy cho các em cách thể hiện những suy nghĩ, tình cảm đó bằng ngôn ngữ nói và viết.

  • Thực trạng
  • Thuận lợi:

Nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và chuyên môn cho việc dạy học.

Đa số các em có ý thức học tập tốt, ngoan ngoãn, biết vâng lời. Phụ huynh đa phần đa phần rất quan tâm đến việc học của con em mình.

Bản thân tôi là một giáo viên trẻ luôn cố gắng học tập kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghiệp, luôn hăng say trong công việc. Khả năng tiếp thu cũng như tiếp cận các chương trình dạy học có ứng dụng công nghệ khá nhanh.

  • Khó khăn:

Trong quá trình dạy viết đoạn văn trong bài văn (phân môn tập làm văn) từ đầu năm đến nay của lớp 3A4, qua việc theo dõi bài làm của học sinh:

Các em còn thiếu sự trải nghiệm thực tế: Học sinh thành thị sẽ ít có cơ hội tiếp cận với cảnh gặt lúa, cày ruộng, ngắm trăng, chèo xuồng,…

  • Mặc dù hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật rất phát triển các em có thể xem và biết được những điều mình quan tâm qua mạng internet như những điều mà các em biết được qua internet sẽ luôn không bằng trải nghiệm thực tế của bản thân. Hơn nữa học sinh chưa hứng thú học Tập làm văn. Các em thường hay làm theo khuôn mẫu, giáo viên gợi mở dàn bài, gợi ý thế nào các em viết thế đó, chưa biết cách dùng từ, đặt câu nên câu văn, bài văn thường cụt ngủn, diễn đạt không trôi chảy. Đôi khi tả nhưng giống như trả lời câu hỏi. Từ gợi ý có sẵn cũng không biết cách để chuyển thành bài văn.
  • Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ, phần lớn các em ít quan tâm đến việc đọc mà chủ yếu lại dành nhiều thời gian cho phim ảnh, trò chơi điện tử. Nếu có đọc thường là truyện tranh, thậm chí có truyện không mang tính giáo dục. Thời gian dành cho các em quan sát cũng như đầu tư vào Tập làm văn cũng hạn chế nên vốn luyến về cuộc sống, về văn học của các em cũng hạn chế. Chính điều này tác động không nhỏ đến việc học phân môn Tập làm văn ở các em.

Từ các nhận định được kiểm chứng qua thực tiễn trên tôi đã rút ra các điểm yếu mà các em hay mắc phải ở giờ làm văn như sau:

  • Học sinh viết hay sai nhiều lỗi chính tả Ví dụ:  + Bạn em là bạn Nga rất xinh đẹp.

+ Bạn trơi rất gần với em.

  • Từ ngữ thiếu chính xác, ít có hình ảnh

Ví dụ: + Bạn Nga có mái tóc rất đen giống lọ mực.

+ Em chơi thân với bạn giống như hai chú mèo nhà em.

  • Sắp ý lộn xộn, chưa có trình tự

Ví dụ: + Hôm nay, em được đi chơi cùng bạn Nga. Từ hồi học lớp 1, bạn Nga đã là bạn thân của em.

  • Viết đoạn văn chưa liên kết, chưa rõ ràng mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
  • Các em chưa biết ngắt nghỉ câu dẫn đến câu văn rất dài, không rõ ý, không rõ nội dung.

Mặt khác, hiện nay bày bán rất nhiều sách tham khảo, văn mẫu tạo điều kiện cho các em chép lại văn mẫu…

Nhiều phụ huynh và đôi khi kể cả giáo viên cũng cho rằng em nào có khiếu thì mới học tốt phân môn này. Đây trở thành là một thách thức đối với giáo viên Tiểu học.

Từ thực trạng trên, tôi tim hiểu được một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.

  • Nguyên nhân
  • Giáo viên:
  • Trong tiết học, giáo viên quá chú trọng vào khâu truyền thụ kiến thức, xem nhẹ việc thực hành rèn luyện kĩ năng nói – viết cho học sinh theo các đối tượng khác nhau.
  • Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm. Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng của bài soạn.
  • Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn, chưa chú trọng sửa lỗi cho học sinh trong quá trình nói – viết.
  • Học sinh:
    • Học sinh lớp 3 các em vẫn đang ở lứa tuổi tò mò, ham học hỏi hay bắt chước nhưng lại chóng chán, nhanh quên, ngại tìm hiểu những văn bản dài và khó như tập làm văn, các em còn học thụ động, bắt buộc, trong giờ học còn tỏ ra uể oải, mệt mỏi không thích học phân môn Tập làm văn.
    • Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn ngôn ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
    • Khả năng tự tin nói trước lớp của các em không tốt, nhiều em còn thiếu tự tin, ngại nói trước lớp. Nhiều học sinh không tự tin giơ tay phát biểu trong giờ học, nếu được cô gọi thì miễn cưỡng đứng lên trả lời. Còn nhiều học sinh lại không dám sáng tạo khi viết văn thường dập khuôn vào gợi ý mẫu nên bài viết thiếu sự mềm mại và hay.
    • Học sinh không được rèn luyện nói trước lớp thường xuyên nên khi bạn nói cũng không tập trung nghe. Vì vậy khả năng phân tích nhận xét đánh giá bài bạn còn yếu chưa nói gì đến việc chữa lỗi giúp nhau.
    • Vốn từ ngữ, vốn sống, vốn hiểu biết của các em hạn hẹp, chưa kể đến một số bài nội dung chưa gần gũi với học sinh như: lễ hội, buổi biểu diễn nghệ thuật, buổi thi đấu thể thao…
    • Khả năng viết của học sinh còn hạn chế do học sinh mới chỉ dừng ở mức độ trả lời câu hỏi gợi ý, chưa có ý tưởng phong phú, sáng tạo. Do vậy bài của các em còn sơ sài, chưa biết sử dụng các hình ảnh so sánh hay nhân hóa để câu văn sinh động, gần gũi. Trong tiết “Nghe – kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dù chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở sách giáo khoa thì các em diễn đạt còn lúng túng, vẫn còn học sinh yếu không nói (viết) được bài hoặc nói (viết) rất chậm.
  • Tập làm văn là một phân môn khá khó trong môn Tiếng Việt lớp 3. Giáo viên muốn dạy tốt phân môn này cần có thời gian chuẩn bị bài trước khi lên lớp thật kỹ, để đưa ra được các hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở cho học sinh, cuốn hút học sinh vào các hoạt động. Học sinh cũng cần có sự chuẩn bị, xem trước bài để hạn chế sự lúng túng, sơ sài và lủng củng trong cách diễn đạt. Nhưng thực tế cho thấy, còn rất nhiều học sinh cảm thấy không hứng thú với tiết học này, còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc diễn đạt rõ nghĩa, thoát ý và lủng củng. Từ những nguyên nhân, thực trạng trên để giúp học sinh học tốt tiết Tập làm văn cũng như viết được đoạn văn ngắn theo yêu cầu của đề bài, tôi xin trình bày một số biện pháp mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua:
  • Biện pháp
  • Biện pháp 1: Tiếp cận năng lực học sinh, khơi gợi học sinh tìm ra kiến thức mới.

*Phương pháp quan sát và hỏi đáp:

Đối với học sinh lớp 3 tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế thì quan sát là phương pháp mang lại hiệu quả rất cao. Đây là một trong những phương pháp dạy học phát huy năng lực của học sinh.

Tôi hướng học sinh có thói quen quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi cần thiết. Học sinh có thể quan sát trên lớp theo gợi ý, quan sát theo hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà, quan sát qua tranh ảnh, hình ảnh cụ thể, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, có thể hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự vật: dùng mắt để nhận rõ hình dáng, màu sắc, hình khối của sự vật; dùng tai để nghe âm thanh; dùng mũi phát hiện các loại mùi… Nhờ các nhận xét thu nhận được học sinh có thể hiểu biết sâu sắc về đối tượng, giúp học sinh khám phá thế giới xung quanh mình. Mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó tôi đưa ra những câu hỏi gợi ý có trong bài học.

Sau khi đã quan sát, học sinh chia sẻ sự quan sát của mình. Tôi thông qua các câu hỏi để kiểm tra xem kết quả quan sát của học sinh đã đầy đủ chưa. Mặt khác rèn cho học sinh kĩ năng nói từ, nói câu ngắn, nói câu dài, trình bày miệng bài nói trước khi làm bài viết. Nếu học sinh chưa quan sát hết ý tôi đưa thêm câu hỏi gợi mở để giúp học sinh hoàn thiện bài viết.

Ví dụ : Bài 4: Nhớ lại buổi đầu đi học  (trang 20 tiếng Việt 3 bộ sách Chân trời sáng tạo tập 1):

-Đưa tranh cho HS quan sát.

 

  • HS thảo luận nhóm đôi, kể cho nhau nghe về buổi đầu đi học của mình
  • Gọi 5 – 6 học sinh kể, cả lớp theo dõi và nhận xét

Ở biện pháp này học sinh lớp tôi thực hiện rất tốt, đã biết diễn đạt rõ ràng và biết lựa chọn những từ ngữ hay để viết được đoạn văn kể lại buổi đầu em đi học.

*Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới.

Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động và tích cực. Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: Học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau hoặc với chính các thầy cô, hoặc hoạt động các nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: Đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức, …Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi, chơi mà học”. Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu.

Ví dụ: Tiết tập làm văn với hệ thống bài tập như sau:

Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Chiếc nhãn vở đặc biệt” (trang 22 tiếng Việt 3 bộ sách Chân trời sáng tạo tập 1). Yêu cầu học sinh nghe và kể lại câu chuyện.

 

Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn nhất là những học sinh trung bình và yếu thì cần có một số phương án dạy học khác như sau:

  • Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung truyện. Giáo viên ghi vài điều cơ bản (nhân vật, một vài sự kiện) mà học sinh đoán được lên bảng (cho học sinh làm việc toàn lớp hay nhóm ).
  • Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần.
  • Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã được ghi trên lớp (cho học sinh làm vào phiếu học tập).
  • Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện.
  • Học sinh kể lại chuyện theo cặp (theo nhóm)
  • Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
  • Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.

* Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Cậu học sinh mới  (trang 38 tiếng Việt 3 bộ sách Chân trời sáng tạo tập 1)

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

một số biện pháp giúp cho việc quản lí, bảo quản và sử dụng phòng tin học có hiệu quả ở trường tiểu học
3
Tin Học
4.5/5

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)