Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4
- Mã tài liệu: BM0202 Copy
Môn: | Quản lí |
Lớp: | 4 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 205 |
Lượt tải: | 164 |
Số trang: | 34 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Lộc Sơn |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 34 |
Tác giả: | Bùi Thị Minh |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Lộc Sơn |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1.Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên về tầm quan trọng của đồ dùng, thiết bị đối với việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nói chung, chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng
2.Biện pháp 2: Bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để tạo thuận lợi cho giáo viên tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học hiệu quả khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng”
3.Biện pháp 3: Giới thiệu một số phương pháp dạy học đặc trưng trong dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” và chỉ đạo giáo viên vận dụng linh hoạt
4.Biện pháp 4: Tìm hiểu, thống kê các bài học có yêu cầu thực hành, thí nghiệm; thống kê đồ dùng thiết bị cần chuẩn bị cho bài dạy và triển khai đến từng tổ, khối, từng giáo viên.
5.Biện pháp 5: Tổ chức chuyên đề Đổi mới phương pháp dạy học môn Khoa học lớp 4, tập trung vào dạng bài có yêu cầu về thực hành, thí nghiệm
6.Biện pháp 6: Chỉ đạo vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho các bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”, môn Khoa học 4
7.Biện pháp 7: Tổ chức dự giờ và góp ý rút kinh nghiệm cho giáo viên một cách kịp thời
Mô tả sản phẩm
A/ PHẦN MỞ ĐẦU
- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khoa học là một môn học thực nghiệm và lí thuyết, đặc trưng này quyết định bản chất của phương pháp nhận thức khoa học.
Bản chất của phương pháp nhận thức khoa học là sự kết hợp thực nghiệm khoa học và tư duy lí luận, đề cao vai trò của sự chính xác .
Phương pháp dạy học khoa học phải tuân theo những quy luật chung của phương pháp dạy học đồng thời phản ánh được phương pháp nhận thức khoa học. Vì vậy phương pháp dạy học khoa học có những nét đặc trưng riêng đó là phương pháp truyền đạt có lập luận trên cơ sở thí nghiệm – trực quan, nghĩa là có sự kết hợp thống nhất phương pháp thực nghiệm – thực hành với tư duy khái niệm.
Khi bắt đầu dạy khoa học phải xuất phát từ trực quan sinh động để đi đến hình thành các khái niệm trừu tượng của khoa học, càng lên lớp cao thì càng phải cần rèn luyện cho học sinh sử dụng khái niệm như công cụ của tư duy.
Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy rằng việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn khoa học ở Tiểu học là rất cần thiết, trong đó phương pháp thí nghiệm – thực hành được sử dụng khá nhiều.
Có thể nói đồ dùng thiết bị dạy học là yếu tố rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học các môn học ở Tiểu học. Việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên trên lớp góp phần đặt nền móng cho quá trình nhận thức của học sinh và tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học; giúp giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, chống “dạy chay” và giúp cho sự nhận thức của học sinh có cơ sở khoa học và hợp lý. Sử dụng thí nghiệm để dạy học tích cực là phương pháp đặc thù của các môn khoa học thực nghiệm trong đó môn Khoa học là một điển hình. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học khoa học là rất quan trọng. Hannes Alfven – một nhà Vật lý học người Thụy Điển – đã từng nói “Khoa học mà không có thí nghiệm thì như một công trình nghiên cứu đi chệch hướng, chỉ còn là những phỏng đoán, tưởng tượng”.
Trong chương trình Khoa học lớp 4, chủ đề “Vật chất và năng lượng” được dạy trong 37 bài. Đây là chủ đề chiếm thời lượng nhiều nhất trong môn Khoa học lớp 4 (chủ đề “Con người và sức khỏe: 19 bài; chủ đề “Thực vật và động vật”: 14 bài) và cũng là chủ đề “khó” tổ chức thực hiện đối với giáo viên, bởi có tới 50% số bài của chủ đề có yêu cầu thực hiện các thí nghiệm khoa học. Những bài đó cần chuẩn bị công phu, lập kế hoạch chặt chẽ, chi tiết và có những bài đồ dùng dạy học rất khó để giáo viên tự làm cũng như khó cho việc tổ chức sử dụng và khai thác.
Qua thực tế chỉ đạo chuyên môn tại trường Tiểu học Lộc Sơn và tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm trường về môn Khoa học, bản thân tôi nhận thấy việc dạy môn Khoa học nói chung và dạy các bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng của giáo viên vẫn còn một số hạn chế như: đồ dùng được cấp phát chưa đủ phục vụ cho bài dạy; giáo viên ngại sử dụng, sử dụng chưa đúng lúc, đúng chỗ; chưa khai thác hết hiệu quả, tác dụng; chưa đầu tư thời gian, công sức làm thêm các đồ dùng, thiết bị cần thiết cho tiết dạy; và đặc biệt là việc hướng dẫn thực hiện các thí nghiệm khoa học của giáo viên rất lúng túng, sự thành công của các thí nghiệm khoa học tiến hành trong các giờ học còn hạn chế. Nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học chỉ nhằm minh họa cho lời giảng, … Nhiều giờ học diễn ra đơn điệu, nhàm chán với những hoạt động quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa, thuyết trình, hỏi đáp, ghi chép trong khi lẽ ra các em phải được tham gia vào việc thực hiện các thí nghiệm khoa học, được tìm tòi, nghiên cứu, khám phá ra những nội dung thú vị trong bài học của mình. Vậy: Làm thế nào để phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học? Làm thế nào để sử dụng đồ dùng dạy học và tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học hiệu quả? Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nói chung và chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng theo đúng yêu cầu đặc trưng của môn học? là những vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho mỗi giáo viên. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4” làm nội dung nghiên cứu của mình.
- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài nhằm:
– Xác định các biện pháp nhằm cải tiến phương pháp dạy học Khoa học 4 theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
– Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học khoa học lớp 4, tập trung vào những bài có yêu cầu thực hành, thí nghiệm thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
– Nội dung và phương pháp dạy học khoa học lớp 4, cách sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học khoa học lớp 4. Tập trung vào những bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”
– Học sinh khối 4 của trường Tiểu học Lộc Sơn – Hậu Lộc – Thanh Hóa.
- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
– Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc tài liệu, tra cứu, phân tích các tài liệu khoa học, sách báo, hồ sơ có liên quan đến đề tài…
– Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, phỏng vấn, trao đổi, quan sát, tổng kết kinh nghiệm,…
– Các phương pháp bổ trợ: Toán học, thống kê,…
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI
- CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học
Nhiều nghiên cứu tâm lý học đã cho thấy, học sinh Tiểu học, đặc biệt ở các lớp đầu cấp thường tư duy dựa vào những tính chất, dấu hiệu trực quan, cụ thể của đối tượng. Sai lầm hay gặp của các em trong quá trình hình thành khái niệm là khái quát trên cơ sở những dấu hiệu không bản chất. Tuy vậy, cuối bậc Tiểu học, khi khái quát hóa để hình thành khái niệm, các em dần thoát khỏi sự chi phối mạnh của những dấu hiệu trực quan và ngày càng dựa nhiều hơn vào những dấu hiệu phản ánh mối quan hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng được hình thành trong quá trình học tập.
Học sinh Tiểu học tìm tòi chủ yếu để “xem điều gì xảy ra” hơn là bắt đầu từ việc xem xét các khả năng và kiểm tra sự phù hợp của chúng. Ý kiến của các em (ví dụ khi dự đoán) thường dựa vào kinh nghiệm đã có hoặc chỉ là dựa vào trường hợp chung đã biết để xét một trường hợp cụ thể chứ chưa phải ở mức dựa vào một lí thuyết để suy diễn rút ra hệ quả.
Học sinh Tiểu học chủ yếu tư duy với các biểu tượng gắn với những sự vật, hiện tượng cụ thể. Các em có thể suy nghĩ lôgíc nhưng phụ thuộc vào thông tin có từ các giác quan. Các em khó suy nghĩ về những cái trừu tượng.
Khi quan sát, làm thí nghiệm, học sinh Tiểu học có xu hướng mô tả hơn là giải thích kết quả tìm thấy được của mình. Trong dạy học cần lưu ý mức độ cho phù hợp hoặc sự nâng dần, giúp các em phát triển. Chẳng hạn, cần hướng dẫn các em quan tâm tới những mối liên hệ trừu tượng cũng như cụ thể, tìm cách lí giải các kết quả, giải thích kết quả theo cách mà có thể vận dụng rộng rãi hơn cho cả tình huống khác; liên hệ những điều quan sát được với những hiểu biết khoa học, đề xuất cách giải thích dựa vào việc suy diễn từ kiến thức khoa học đã biết.
- Về chương trình và sách giáo khoa
Tích hợp các nội dung của các khoa học tự nhiên với khoa học về sức khỏe. Nội dung được lựa chọn thiết thực, gần gũi và có ý nghĩa với học sinh.
Chú trọng tới hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập khoa học như quan sát, dự đoán, giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản và kĩ năng vận dụng các kiến thức khoa học vào cuộc sống
Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, tự lực tìm tòi phát hiện ra kiến thức, và thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe, cá nhân và cộng đồng.
Trong sách giáo khoa Khoa học, chức năng hướng dẫn phương pháp dạy học của sách được quan tâm. Các kết quả quan sát, thí nghiệm, kết luận không được cung cấp sẵn. Vì vậy học sinh phải tích cực hoạt động, quan sát, làm thí nghiệm, suy nghĩ về những thông tin nhận được; thảo luận, trao đổi để rút ra các kết luận. Khối lượng kiến thức vừa phải, vì vậy có điều kiện tổ chức các hoạt động tìm tòi, khám phá,…
- Về vai trò của đồ dùng, thiết bị dạy học
Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo viên và học sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả quá trình dạy học, giáo dục đối với các môn học trong nhà trường nhằm thực hiện chương trình dạy học. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục tiêu dạy học. Thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành.
Thiết bị đồ dùng dạy học dưới sự điều khiển của người giáo viên có tác dụng rất to lớn: Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị là cầu nối giữa người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và làm cho chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 5
- 131
- 1
- [product_views]
- 4
- 179
- 3
- [product_views]
- 2
- 142
- 5
- [product_views]
- 0
- 123
- 6
- [product_views]
- 6
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 189
- 8
- [product_views]
- 5
- 177
- 9
- [product_views]
- 6
- 124
- 10
- [product_views]