Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam sau kết thúc dự án VNEN
- Mã tài liệu: BM0194 Copy
Môn: | Quản lí |
Lớp: | 2 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 205 |
Lượt tải: | 164 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Phạm Thị Phương |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Thành Vân |
Năm viết: | 2020-2021 |
Số trang: | 27 |
Tác giả: | Phạm Thị Phương |
Trình độ chuyên môn: | Cử nhân đại học |
Đơn vị công tác: | Tiểu học Thành Vân |
Năm viết: | 2020-2021 |
Sáng kiến kinh nghiệm “Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam sau kết thúc dự án VNEN“ triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Tăng cường công tác tuyên truyền một cách kịp thời, đúng đắn về mô hình trường học Mới Việt Nam đến phụ huynh
2. Bố trí sắp xếp đội ngũ giáo viên dạy học lớp 2 một cách phù hợp, có hiệu quả
3. Tổ chức tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lên lớp 2 trong hè năm ………. đạt hiệu quả
4. Tổ chức tập huấn bổ sung phương pháp dạy-học môn Tiếng Việt lớp 2 cho giáo viên trực tiếp dạy lớp 2 năm học
5. Làm tốt công tác chuẩn bị cho học sinh lớp 2 trước khi bước vào năm học mới ..
6. Tăng cường công tác dự giờ thăm lớp đối với môn Tiếng Việt lớp 2 và nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn định kỳ
7. Phát động phong trào thi đua trang trí lớp học thnâ thiện vào dịp chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
8. Động viên, khích lệ quan tâm đến đội ngũ giáo viên
9. Kêu gọi, vận động phụ huynh học sinh tích cực tham gia làm đồ dùng học tập cùng với giáo viên, học sinh
Mô tả sản phẩm
- MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Với định hướng xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Chương trình dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam là bước đầu thử nghiệm cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.[1]
Năm học ………., cùng với 1447 trường Tiểu học trên cả nước, trường Tiểu học Thành Vân được tham gia dạy học chương trình thử nghiệm theo mô hình trường học mới Việt Nam đối với lớp 2, 3.
Trường học mới VNEN là nơi học sinh cùng nhau học tập để lĩnh hội những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Ở đó, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng. Ở đây, phụ huynh và cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình. Mô hình trường học mới Việt Nam tập trung vào đổi mới sư phạm: Đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá học sinh, đổi mới tổ chức lớp học.[2]
Sau 4 năm thực hiện chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam, nhà trường đã phát huy được những ưu điểm của chương trình, những thuận lợi của Dự án, đồng thời khắc phục những tồn tại của chương trình trong quá trình thực hiện và rút ra những kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
Năm học ………., là năm học đã kết thúc dự án VNEN, trường Tiểu học Thành Vân tiếp tục thực hiện chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam ở cả 4 khối lớp 2, 3, 4, 5. Song sau khi Dự án kết thúc thì nhà trường cũng gặp những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Đặc biệt, đối với học sinh lớp 2, đầu năm học kỹ năng đọc hiểu của các em còn chưa tốt, khả năng giao tiếp còn hạn chế vì vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của các em chưa có nhiều, nên khả năng làm việc độc lập, sự tương tác trong nhóm, tương tác với thầy cô hiệu quả chưa cao. Là một quản lý nhà trường, bản thân tôi hết sức băn khoăn và trăn trở trước những khó khăn, tồn tại của chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam, cần đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những khó khăn, tồn tại nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi đã quyết định chọn sáng kiến kinh nghiệm “Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam sau kết thúc dự án VNEN” áp dụng vào năm học ………. để phần nào góp phần vào sự thành công của chương trình thử nghiệm VNEN.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đối với học sinh lớp 2 khả năng đọc hiểu của các em còn nhiều hạn chế, song các em học theo chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam lại phải tự làm việc với tài liệu, các em phải tự tìm hiểu bài qua các logo của tài liệu dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Để các em học sinh lớp 2 tiếp cận với cách học của Mô hình thì đòi hỏi các em cần đạt các kỹ năng về môn Tiếng Việt ở mức độ tương đối tốt. Chính vì vậy cần chỉ đạo để thực hiện tốt công tác dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích trên; ý thức được vai trò và tầm quan trọng của việc chỉ đạo dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nói chung và dạy học theo Mô hình trường học mới Việt Nam nói riêng, tôi nhận thấy: Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam là vô cùng cần thiết và quan trọng nên tôi đã lựa chọn và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 Mô hình trường học Mới Việt Nam sau khi Dự án VNEN kết thúc tại trường Tiểu học Thành Vân huyện Thạch Thành”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp quan sát.
– Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
– Phương pháp tổng hợp kết quả.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
– Khắc phục những khó khăn khi thực hiện chương trình sau khi kết thúc Dự án.
– Khắc phục những tồn tại của chương trình Tiếng Việt lớp 2 – Mô hình trường học Mới Việt Nam.
- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận:
Trường học mới không phải mới về CSVC, vẫn phòng học ấy chỉ là trang trí để tạo sự gần gũi, thân thiện, đồng thời các nội dung trang trí góp phần vào việc thực hiện các nội dung của Mô hình trường học mới như là các công cụ hỗ trợ. Mô hình trường học mới cũng không phải là đổi mới về chương trình mà vẫn là những nội dung dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình hiện hành.
Trong mô hình trường học mới thì Tài liệu hướng dẫn học các môn Tiếng Việt, toán, TNXH, khoa học, Lịch sử địa lý được biên soạn mới dưới dạng thiết kế các hoạt động giúp học sinh có thể tự học nhưng vẫn là nội dung của chương trình hiện hành có được lược bỏ những nội dung khó còn các môn học Đạo đức, Thủ công (kỹ thuật), thể dục, âm nhạc, Mỹ thuật vẫn dùng SGK của chương trình hiện hành.
Như vậy Mô hình trường học mới tập trung vào đổi mới sư phạm, bao gồm: Đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá học sinh, đổi mới tổ chức lớp học, đổi mới sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng.
Những đổi mới này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và cùng với việc thực hiện những đổi mới trên là việc thực hiện đổi mới công tác quản lý, đổi mới việc sinh hoạt chuyên môn.
Chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam là bước đầu của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đây là chương trình đã tạo cho học sinh có cơ hội học hỏi lẫn nhau, phát huy được tính tích cực, tự giác trong hoạt động học tập, đã tạo cho các em môi trường học tập một cách thoải mái, tự tin, không bị gò bó, áp đặt, các em được khám phá, trải nghiệm để tìm đến kiến thức mới một cách chủ động.[2]
Sau tổng kết 4 năm thực hiện chương trình các trường Tiểu học trên toàn quốc nói chung cũng như trường Tiểu học Thành Vân nói riêng đã gặt hái được những thành công nhất định trong quá trình thử nghiệm. Tuy nhiên, sự thành công của chương trình thử nghiệm cũng một phần lớn là nhờ sự hỗ trợ kinh phí của Dự án VNEN. Bởi lẽ, khi thực hiện chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam cần phải có kinh phí để trang bị làm đồ dùng dạy học, trang trí lớp học theo Mô hình, sinh hoạt chuyên môn,… Năm học ………., Dự án VNEN đã kết thúc đồng nghĩa với việc không còn kinh phí hỗ trợ trong công tác dạy học, như vậy nhà trường sẽ gặp những khó khăn nhất định trong công tác làm đồ dùng dạy học, trang trí lớp học.
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 5
- 131
- 1
- [product_views]
- 4
- 179
- 3
- [product_views]
- 2
- 142
- 5
- [product_views]
- 0
- 123
- 6
- [product_views]
- 6
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 189
- 8
- [product_views]
- 5
- 177
- 9
- [product_views]
- 6
- 124
- 10
- [product_views]