Biện pháp tăng cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo trong dạy học tập làm văn cho học sinh lớp 3 (Bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống)
- Mã tài liệu: HT3020 Copy
Môn: | Tiếng Việt |
Lớp: | Lớp 3 |
Bộ sách: | |
Lượt xem: | 782 |
Lượt tải: | 4 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Phạm Thị Thanh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến |
Năm viết: | 2022-2023 |
Số trang: | 23 |
Tác giả: | Phạm Thị Thanh Hà |
Trình độ chuyên môn: | Thạc sĩ giáo dục |
Đơn vị công tác: | Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến |
Năm viết: | 2022-2023 |
Sáng kiến kinh nghiệm “SKKN Biện pháp tăng cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo trong dạy học tập làm văn cho học sinh lớp 3 (Bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống)” triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:
1. Nâng cao năng lực nhận biết phép tu từ so sánh cho học sinh lớp 3
1.1. Dạy phép so sánh theo đúng quy trình
1.2. Dạy “Tích hợp” phép so sánh trong các môn học
2. Nâng cao kỹ năng thực hành phép tu từ so sánh cho học sinh lớp 3
2.1. Dạy theo các mô hình
2.2. Dạy phép tu từ so sánh dưới hình thức tổ chức “Trò chơi học tập”
Mô tả sản phẩm
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là một trong những môn học chính của bậc tiểu học nói chung, và đặc biệt là lớp 3 nói riêng. Học sinh khi tiếp xúc, trải nghiệm và học tập với môn tiếng Việt sẽ hình thành và phát triển được kỹ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) trong học tập và giao tiếp. Ngoài ra còn góp phần gợi mở các thao tác tư duy, những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; tự nhiên; xã hội; con người.
Hiện nay, phân môn tập làm văn trong tiếng Việt lớp 3 thường được giảng dạy theo phương pháp truyền thống, thầy cô nói học sinh nghe chưa gợi mở được cho học sinh nhiều kỹ năng tư duy như sáng tạo, phản biện, làm việc nhóm,… Cùng với đó, do học sinh có xu hướng lắng nghe từ một chiều thầy cô nên các em còn khá chậm chạp, rụt rè trong việc tự tin phát biểu, nêu lên ý kiến của mình. Bên cạnh đó, tình trạng không khí tiết học trầm lắng, chưa được sôi nổi kéo theo học sinh ngủ gật trong lớp,.. Cũng đến từ nguyên nhân học sinh chỉ lắng nghe thầy cô và không được nêu lên ý kiến của mình và thiếu hình ảnh trực quản, sinh động không khơi gợi được những ý tưởng sáng tạo, niềm yêu thích đối với phân môn tập làm văn.
Đặc biệt với chương trình giáo dục mới, phân môn tập làm văn lớp 3 được biên soạn trong Bộ sách Kết nối trí thức với cuộc sống đã gắn liền lý thuyết với thực tiễn, phù hợp cho sự phát triển thời đại mới hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nổi bật, thì việc dạy học phân môn tập làm văn lớp 3 trong Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống cũng gặp nhiều khó khăn nhất định như: Làm cách nào để học sinh chủ động trong việc gợi mở ý tưởng, sáng tạo; học sinh chủ động hơn trong việc tư duy; học sinh phải học được cách làm việc nhóm,.. Vì vậy mà nhiều cơ sở giảng dạy đã thay đổi cách dạy truyền thống, đổi mới phương pháp dạy học. Thay vào đó vận dụng và biến đổi phương pháp dạy học tích cực trong việc truyền tải kiến thức phân môn tập làm văn, tạo được sự hứng thú, gợi mở được sự sáng tạo, tư duy trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh.
Chính vì vậy tôi đã tìm hiểu và lựa chọn đề tài “Tăng cường các hoạt động tích cực vào dạy tập làm văn lớp 3 nhằm kích thích tính sáng tạo, chủ động cho học sinh (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)” thông qua đó đưa ra các giải pháp phù hợp tạo điều kiện thuận lợi để giúp các em học sinh lớp 3 có thể tiếp thu kiến thức phân môn tập làm văn hiệu quả hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
– Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của việc áp dụng, tăng cường hoạt động tích cực vào giảng dạy cho học sinh trong chương trình tiếng Việt lớp 3, đặc biệt là phân môn tập làm văn.
- Đưa ra một số biện pháp áp dụng và tăng cường hoạt động tích cực vào giảng dạy phân môn tập làm văn trong chương trình tiếng Việt lớp 3, giúp tăng hứng thú học tập, phát triển các kỹ năng tư duy của học sinh. Từ đó, rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm khi áp dụng sáng kiến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu: các hoạt động tích cực trong giảng dạy tập làm văn lớp 3.
– Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3A trường tiểu học …..năm học …
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
– Phương pháp nghiên cứu lý luận
– Phương pháp thu thập, xử lý số liệu
– Phương pháp thống kê
– Phương pháp so sánh
– Phương pháp phân tích tổng hợp
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Hoạt động tích cực trong giảng dạy là hoạt động nhằm huy động sự tham gia của tất cả thành viên trong lớp vào một câu hỏi, với mục đích phát huy khả năng giao tiếp và cải thiện không khí học tập chung của cả lớp. Trong chương trình giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3, việc áp dụng các hoạt động tích cực để tăng tính sáng tạo đóng một vai trò quan trọng đối với học sinh. Thông qua các hoạt động, học sinh sẽ hình thành và phát triển khả năng tư duy, phản biện, suy nghĩ tích cực, học hỏi thêm được các kỹ năng thuyết trình, tôn trọng ý kiến của các bạn trong lớp và đặc biệt là kỹ năng làm việc nhóm từ đó xây dựng và đóng góp bài tốt hơn.
Mục tiêu chính của phân môn tập làm văn lớp 3 là khơi gợi khả năng tư duy, sáng tạo tăng cường khả năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói). Thông qua đó hình thành nên khả năng phản biện, tư duy đa chiều. Đối với phân môn Tập làm văn lớp 3 yêu cầu học sinh cần nắm được các đơn vị kiến thức và kỹ năng sau khi học xong chương trình lớp 3 như sau:
– Trang bị cho học sinh một số kỹ năng áp dụng trong học tập, đời sống hằng ngày như điền vào các giấy tờ tùy thân, viết thư, làm đơn, viết nhật ký, … Thông qua đó khuyến khích học sinh dám nghĩ dám làm, có suy nghĩ tích cực, sáng tạo,…..
– Thực hành và tiếp tục vận dụng kỹ năng sử dụng tiếng Việt, thông qua các hoạt động kể chuyện, miêu tả, thuật lại thông qua những khơi gợi từ thầy cô giáo hoặc chính bản thân học sinh.
Việc lồng ghép và tăng cường hoạt động giảng dạy tích cực vào phân môn tập làm văn đã góp phần giúp học sinh nắm vững được các kiến thức quan trọng cốt lõi đồng thời tư duy, phát triển, suy nghĩ có logic triển khai ra được nhiều hướng, nhiều góc nhìn và chiều sâu của kiến thức. Từ đó tạo tiền đề xây dựng được nhiều kiến thức nền vững chắc phục vụ cho những hoạt động học tập, làm việc sau này của học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, tình trạng học sinh vẫn còn thụ động trong tiết học tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng diễn ra khá nhiều. Khi giáo viên chưa khơi gợi được tình tò mò, sáng tạo trong quá trình truyền đạt kiến thức đến học sinh. Một số trường hợp các giáo viên truyền đạt kiến thức theo kiểu truyền thống khi thầy cô nói – học sinh nghe, nên không có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên. Học sinh không phải suy nghĩ, sáng tạo trong tiết học mà chỉ cần đợi thầy cô đến chỉ dạy dẫn đến hình thành thói quen học vẹt, học tủ, lười suy nghĩ khiến cho tiết học chán nản, không hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh.
Các hoạt động tích cực, tăng tính sáng tạo cho học sinh chưa được đưa nhiều vào giảng dạy phân môn tập làm văn. Học sinh chỉ tiếp xúc với các con chữ và lời giảng của giáo viên mà không có các phương tiện trực quan hay hoạt động trải nghiệm,… Từ đó làm cho học sinh chán nản, không tạo được sự tò mò, hứng thú đối với phân môn tập làm văn.
Trong quá trình nghiên cứu tại đơn vị, tôi nhận thấy một số thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng lớn đến kết quả của việc áp dụng nghiên cứu nhau sau:
*Thuận lợi:
Về phía nhà trường: Nhà trường đã trang bị đầy đủ trang thiết bị hỗ trợ cũng như tạo điều kiện cho giáo viên ứng dụng các biện pháp giảng dạy tích cực tránh tình trạng dạy chay, dạy không có hình ảnh trực quan.
Về phía giáo viên: Trong trường thường xuyên có những buổi trao đổi, chia sẻ giữa các thầy cô về việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực, tăng tính sáng tạo cho học sinh trong quá trình triển khai truyền đạt kiến thức cũng như hỗ trợ nhau khi gặp khó khăn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy giữa các thầy cô.
Về phía học sinh: Học sinh khi được tiếp xúc, tham gia các phương pháp dạy học tích cực trong phân môn tập làm văn đã phấn khởi, ngoan ngoãn, tiếp thu tốt và có những trao đổi, tương tác giữa giáo viên và học sinh trong suốt buổi học. Thông qua đó khơi gợi tính mò, sáng tạo của học sinh cũng như các bạn trong lớp.
* Khó khăn:
Về phía giáo viên: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tích cực, giáo viên đã gặp phải những khó khăn nhất định như tìm kiếm nguồn tư liệu mới nhằm lôi cuốn học sinh, tăng tính tương tác giữa học sinh với học sinh và học sinh với thầy cô. Việc đổi mới sách giáo khoa cũng là một trong những trở ngại với thầy cô khi phải tìm hiểu, thay thế những kiến thức đã được đổi mới trong sách giáo khoa sao cho phù hợp với thực tế tại đơn vị.
Về phía học sinh: Đa số học sinh vẫn còn khá rụt rè trong quá trình trao đổi, tương tác với thầy cô và bạn bè. Song song đó, khả năng diễn đạt chưa tốt đến từ việc ngại giao tiếp, nghèo vốn từ vì học sinh chỉ việc lắng nghe thầy cô và ghi chép.
Về phía phụ huynh: Hiện nay, nhiều phụ huynh vẫn chưa thực sự quan tâm cần thiết đến con, học sinh khi về nhà dành nhiều thời gian xem điện thoại, tivi,… Từ đó tạo nên tính cách lười tương tác, lười nói hoặc ngại nói. Đặc biệt, nói lại là một trong những cách làm vốn từ vựng của học sinh tăng lên đáng kể. Học sinh có vốn từ nhiều thì khi làm tập làm văn sẽ sinh động và hay hơn. Chính vì vậy việc quan tâm của phụ huynh đến học sinh vô cùng quan trọng góp phần cho học sinh có thể thay đổi, thích nghi đối với phương pháp giảng dạy mới.
3. Giải pháp thực hiện
Biện pháp 1. Tổ chức hoạt động nhóm thông qua áp dụng kỹ thuật hợp tác nhằm phát huy tính chủ động cho học sinh
* Mục đích
Mục tiêu của việc tổ chức hoạt động nhóm thông qua áp dụng kỹ thuật hợp tác nhằm tăng tính tương tác giữa học sinh, phát huy tính chủ động cho học sinh khi làm tập làm văn. Khi tham gia thảo luận nhóm học sinh bắt buộc phải chủ động trong việc tiếp nhận, lắng nghe ý kiến của bạn bè, thầy cô. Từ đó hình thành và rèn luyện kỹ năng lắng nghe cho học sinh. Trong quá trình làm việc nhóm, học sinh sẽ được làm quen và được hướng dẫn cách hoạt động và thảo luận nhóm sao cho hiệu quả nhất.
* Nội dung và cách thực hiện:
Kỹ thuật hợp tác là những tương tác qua lại lẫn nhau giữa học sinh với học sinh hoặc học sinh với giáo viên nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là giải quyết được những câu hỏi, kiến thức trong bài học. Đặc biệt đối với phân môn tập làm văn khi ứng dụng kỹ thuật hợp tác, học sinh đã bắt đầu có những biến đổi tích cực từ việc tự tin nêu lên ý kiến của mình, sáng tạo và hứng thú hơn trong lúc học. Ngoài ra còn học thêm được các kỹ năng làm việc nhóm, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các bạn trong nhóm, phản biện,…
*Ví dụ:
Sử dụng kỹ thuật hợp tác khi dạy học tập làm văn “Viết đoạn văn nêu các bước làm 1 món ăn” (Bài 6 chủ đề 1 Tiếng Việt 3 sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
Để áp dụng kỹ thuật hợp tác vào dạy tập làm văn bài “Viết đoạn văn nêu các bước làm 1 món ăn” tôi tiến hành qua các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm
Đầu tiên, tôi tiến hành chia lớp làm 6 nhóm, tương ứng mỗi nhóm gồm 5 học sinh. Nhiệm vụ của các nhóm là hợp tác, thảo luận với nhau để hoàn thành bài tập làm văn với chủ đề “Viết đoạn văn nêu các bước làm 1 món ăn” trong thời gian 15 phút.
Song song tôi sẽ đề ra các quy định cộng, thưởng rõ ràng cho mỗi nhóm như sau:
– Trong lúc các bạn tham gia thảo luận phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các bạn trong nhóm, không được làm ồn lớp. Nếu làm tốt sẽ được cộng 1 điểm, ngược lại nếu không làm tốt sẽ bị trừ 1 điểm.
– Các bạn trong nhóm bắt buộc phải tham gia thảo luận, không được làm việc riêng. Nếu trong lúc nhóm thảo luận có bạn làm việc riêng nhóm sẽ bị trừ 1 điểm và nếu làm tốt sẽ được cộng 1 điểm.
– Nhóm có câu hỏi hay cho các nhóm khác sẽ được cộng 1 điểm. Đến cuối tiết học, nhóm nào hoàn thành tốt và được cả 3 điểm cộng sẽ được cộng 1 điểm vào bài tập làm văn. Sau khi học sinh nắm được các quy định và chia nhóm, tôi sẽ giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo luận để chọn ra 1 món ăn và viết đoạn văn nêu các bước làm món ăn đó.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh làm tốt bài tập làm văn
Sau khi đã chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm, tôi giúp học sinh nhớ lại để nắm vững các yêu cầu của đoạn văn. Tôi hướng dẫn các em học sinh nắm được cấu trúc cơ bản của một đoạn văn, bao gồm:
– Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát về món ăn mà em sẽ nêu ra sắp tới đây.
– Phần thân đoạn: Kể về các nguyên vật liệu cần chuẩn bị trước khi nấu ăn, miêu tả các bước làm món ăn, hình dáng và màu sắc của món ăn, cách trang trí món ăn,..
– Phần kết bài: Nêu cảm nhận, suy nghĩ về món ăn.
Khi các nhóm đã nắm được cấu trúc cách viết của một đoạn văn, tôi sẽ dẫn dắt và khơi gợi được những đề tài về các món ăn quen thuộc, dễ làm với học sinh. Để các em hình dung được các bước làm, tôi cho học sinh xem video về cách làm món một vài món ăn như: bánh tráng trộn và trứng chiên…
Hình minh họa video sử dụng trong bài học 1
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=ulehOcavEIk
Hình minh họa video sử dụng trong bài học 2
Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=wjggAJTo14w
Sau khi học sinh xem video, tôi gợi ý nội dung viết đoạn văn cho các nhóm thông qua việc đưa ra các câu hỏi gợi ý như sau:
+ Em muốn giới thiệu các bước làm món ăn gì? Tại sao em lại chọn món ăn đó?
+ Các bước có trong món ăn đó gồm những bước nào?
+ Món ăn đó gồm những nguyên liệu gì ?
+ Món ăn đó màu gì,…
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách thảo luận nhóm hiệu quả
Mỗi nhóm gồm 5 học sinh, tôi sẽ hướng dẫn các nhóm phân chia các vai trò và nhiệm vụ trong nhóm như: 1 nhóm trường, 1 thư ký, 3 thành viên đóng góp ý kiến. Trong đó nhóm trưởng sẽ là người dẫn dắt nhóm đưa ra quyết định trong nhóm, thuyết trình đoạn văn của nhóm, đại diện trả lời câu hỏi từ giáo viên và các bạn nhóm khác; thư ký là bạn sẽ ghi chép lại những nội dung các bạn thảo luận, vì vậy thư ký nhóm cần là người viết chữ đẹp; 3 thành viên còn lại sẽ có nhiệm vụ đưa ra các ý kiến dưới sự dẫn dắt của nhóm trưởng.
Khi các nhóm đã phân chia được nhiệm vụ cũng như vai trò cho của các thành viên trong nhóm, các nhóm sẽ tiến hành thảo luận. Tôi đã quy định thời gian để hoàn thành đoạn văn là 15 phút. Vì vậy khi các nhóm thảo luận để đạt hiệu quả nhất tôi hướng dẫn các em phân bổ thời gian thực hiện như sau:
– Trong 5 phút đầu, các thành viên trong nhóm bắt buộc phải đưa ra ý kiến cá nhân của mình lên giấy. Mỗi thành viên sẽ tự đưa ra các nguyên liệu cần cho món ăn, các bước nấu món ăn mà nhóm đã chọn.
– Trong 5 phút tiếp theo, cả nhóm sẽ cùng nhau tổng hợp – thảo luận nhằm chọn ra được những ý hay nhất. Từ các ý trên, nhóm trưởng và cả nhóm sẽ cùng nhau thảo luận quyết định đưa ra dàn ý chi tiết, đầy đủ nhất cho các nguyên liệu cũng như các bước để nấu món ăn trong bài văn.
– Trong 5 phút cuối cùng, thư ký sẽ có nhiệm vụ dựa trên dàn ý nhóm đã thống nhất và cùng các thành viên trình bày đoạn văn ra giấy. Các thành viên còn lại sẽ có nhiệm vụ rà soát lại bài, hỗ trợ thư ký trang trí trình bày đoạn văn triển khai các ý dựa theo dàn ý.
Xem thêm:
- SKKN Giúp học sinh lớp 3 học tốt ”biện pháp tu từ so sánh” trong phân môn Luyện từ và câu theo bộ sách Kết nối tri thức (W+PPT)
- SKKN Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai chính tả cho học sinh lớp 3 theo bộ sách Kết nối tri thức (W+PPT)
- SKKN Một số biện pháp dạy học dạng toán tính giá trị của biểu thức ở lớp 3 có hiệu quả theo bộ sách Kết nối tri thức (W+PPT)
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
- 7
- 153
- 1
- [product_views]
- 8
- 182
- 2
- [product_views]
- 0
- 136
- 3
- [product_views]
- 3
- 111
- 4
- [product_views]
- 8
- 186
- 5
- [product_views]
- 5
- 156
- 6
- [product_views]
- 4
- 169
- 7
- [product_views]
- 3
- 167
- 8
- [product_views]
- 4
- 199
- 9
- [product_views]
- 8
- 134
- 10
- [product_views]