SKKN Góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 12 thông qua dạy học chủ đề tương giao

Giá:
100.000 đ
Môn: Toán
Lớp: 12
Bộ sách:
Lượt xem: 489
Lượt tải: 13
Số trang: 54
Tác giả: Bùi Thị Minh Hằng
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Đô Lương 3
Năm viết: 2021-2022
Số trang: 54
Tác giả: Bùi Thị Minh Hằng
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học
Đơn vị công tác: THPT Đô Lương 3
Năm viết: 2021-2022

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN Góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 12 thông qua dạy học chủ đề tương giao triển khai gồm các biện pháp nổi bật sau:

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo.
– Củng cố cho học sinh các chuẩn kiến thức, kỹ năng của chuyên đề tương giao hàm số thuộc chương trình giải tích lớp 12.
– Ghép bảng biến thiên để giải các bài toán hàm hợp một cách nhanh chóng, hiệu quả.
– Định hướng cho học sinh kỹ năng giải một số dạng bài toán thường gặp thuộc chủ đề tương giao của hàm số thông qua việc khai thác các bài toán tương giao trong các đề thi minh họa, đề thi tham khảo, đề thi chính thức của Bộ GD&ĐT, các đề thi thử trên cả nước, từ đó góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh.
– Hướng dẫn học sinh xây dựng hệ thống các bài toán tương giao của hàm số giúp học sinh làm quen với xu hướng ra đề thi của Bộ GD&ĐT về chủ đề tương giao của hàm số qua đó giúp các em học sinh tự tin hơn trong việc tìm tòi lời giải các bài toán tương giao hàm hợp góp phần phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh.

Mô tả sản phẩm

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Điều 24 của Luật giáo dục cũng xác định “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của lớp học, môn học, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học.
Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp học sinh hình thành, phát triển những phẩm chất, năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng. Theo yêu cầu của chương trình này, vấn đề phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh được đặt lên hàng đầu. Trong số những phẩm chất, năng lực cần hình thành cho học sinh thì năng lực đầu tiên và quan trọng nhất là năng lực tự học.
Tại tỉnh Nghệ An, do diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 nên từ năm học 2019-2020 đã phải gián đoạn việc học tập trung một thời gian, bắt buộc các nhà trường phải tổ chức dạy học trực tuyến với nhiều khó khăn và bị động. Điều này đòi hỏi học sinh phải có ý thức tự giác cùng với khả năng tự học tốt thì mới đáp ứng được. Lớp 12 là giai đoạn quan trọng quyết định tương lai, sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh gắn liền với kỳ thi tốt nghiệp, xét tuyển vào Đại hoc và thi đánh giá năng lực mà môn Toán là môn thi bắt buộc. Nếu học sinh được bồi dưỡng phương pháp tự học đúng đắn thì sẽ tạo động lực giúp các em học tập chăm chỉ, tiến bộ, phát huy được tính sáng tạo và khả năng tự học hiệu quả, góp phần phát triển phẩm chất năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Môn Toán là công cụ đắc lực hỗ trợ nhiều môn học khác, nếu có khả năng tự học tốt môn toán thì sẽ tự học được các môn học khác nữa, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Như vậy, bồi dưỡng năng lực tự học môn toán là cần thiết đối với mọi cấp học và nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các em lớp 12. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vấn đề tự học toán của học sinh hiện nay còn nhiều bất cập. Một bộ phận học sinh chưa ý thức được việc tự học, lười học, học một cách thụ động, chỉ cố gắng hoàn thành bài tập mà giáo viên giao mà chưa biết cách hệ thống kiến thức và tìm hiểu, khám phá những điều liên quan. Từ những kinh nghiệm của bản thân cùng với sự nghiên cứu tài liệu và học hỏi đồng nghiệp, tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả học tập môn toán cho học sinh lớp 12 thông qua việc bồi dưỡng năng lực tự học” nhằm phát triển năng lực cho học sinh, đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát triển năng lực cho học sinh THPT đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò, cách thức tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 12 tự học môn toán trong quá trình dạy học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
– Thực trạng tự học môn toán của học sinh lớp 12 ở các trường THPT tại Yên Thành.
– Đề xuất cách thức tổ chức hướng dẫn học sinh lớp 12 tự học môn toán trong quá trình dạy học nhằm bồi dưỡng, phát triển năng lực tự học cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
– Nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu, phân tích và tổng hợp các tài liệu giáo dục học, tâm lý học, các tạp chí, sách, báo, đặc san tham khảo có liên quan tới vấn đề nghiên cứu.
– Điều tra quan sát:
Điều tra, khảo sát thực tế; phỏng vấn các giáo viên, học sinh trường THPT.
– Thực nghiệm sƣ phạm:
Tổ chức thực nghiệm đề tài vào thực tiễn để xem xét tính khả thi và hiệu quả của đề tài cũng như tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.Hoạt động bồi dƣỡng năng lực tự học
1.1.1. Khái niệm tự học
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức: “Tự học là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ th ng tri thức v n ng do ch nh ng i học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo ch ơng trình và sách giáo khoa đã đ ợc qui định”.
Theo từ điển Giáo dục học của tác giả Bùi Hiền (2001): “Tự học l qu tr nh ho t động l nh hội tri thức hoa học và rèn luyện n ng thực h nh…”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện, tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian không nhiều khi học ở nhà trường. Tự học giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn.
1.1.2. Vai trò của tự học
Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, họ sẽ có ý thức và xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lí thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Tự học của học sinh trung học phổ thông, đặc biệt là học sinh lớp 12 trong điều kiện dịch bệnh covid còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao kết quả thi tốt nghiệp và xét tuyển vào Đại học . Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Vì vậy, tự học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông . Theo phương châm học suốt đời “ Học, học nữa, học mãi” thì việc “tự học” lại càng có ý nghĩa đặc biệt đối với học sinh trung học phổ thông. Vì nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên đến các bậc học cao hơn như cao đ ng, đại học, sau đại học, học sinh sẽ khó thích ứng do đó khó có thể thu được một kết quả học tập và nghiên cứu tốt. Hơn thế nữa, nếu không có khả năng tự học thì chúng ta không thể đáp ứng được phương châm “Học suốt đời” mà Hội đồng quốc tế về giáo dục đã đề ra vào tháng 4 năm 1996.
1.1.3. Năng lực tự học
Năng lực tự học nói chung là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong học tập.
Năng lực tự học của học sinh phổ thông là khả năng học sinh lập được kế hoạch tự học một cách khoa học, thực hiện có hiệu quả kế hoạch tự học đã lập, tự đánh giá kết quả đạt được và điều chỉnh quá trình tự học có sự hỗ trợ của giáo viên.
1.1.4. Quá trình tự học
Quá trình tự học của học sinh thường được diễn ra qua các bước: Tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự điều chỉnh và vận dụng.
Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu
Ở giai đoạn này, bước đầu tiên là học sinh cần xác định được mục tiêu học tập, nội dung học tập và lên kế hoạch tự học. Tiếp đó là các em cần xác định kiến thức, kỹ năng cơ bản thuộc mỗi nội dung hay chủ đề, xem kiến thức nào là quan trọng, cốt lõi. Sau đó, học sinh phải biết hệ thống hóa kiến thức, biết xác định mối quan hệ giữa kiến thức, kỹ năng mới thu nhận với kiến thức và kỹ năng đã có để hợp thành một thể thống nhất, dễ dàng huy động khi cần.
Giai đoạn 2: Tự thể hiện và hợp tác
Những kiến thức tự học ở giai đoạn 1 tuy có hệ thống nhưng còn mang tính chủ quan, khó mà phát hiện ra được những nhầm lẫn, sai sót. Do đó, cần qua giai đoạn 2 để chuyển những kiến thức, kỹ năng mang tính chủ quan thành khách quan, thực hiện qua các bước:
– Tự thể hiện: Học sinh diễn đạt lại các kiến thức, các sản phẩm mang tính cá nhân để GV và HS khác có thể quan sát, phân tích, từ đó bổ sung, chỉnh sửa làm cho sản phẩm được chính xác, mang tính khách quan. HS có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau như : tóm tắt, lập sơ đồ tư duy, báo cáo,…
-Thảo luận: HS tranh luận về các điều mới học, giải thích, bảo vệ sản phẩm của mình, GV và HS khác lắng nghe để từ đó bổ sung, sửa chữa nhằm hoàn thiện, làm cho sản phẩm chính xác, mang tính khách quan.
Giai đoạn 3: Tự điều chỉnh – Tự đánh giá: Lúc này, HS cần tự đánh giá việc học dựa vào các hướng dẫn đã có. Để có hiệu quả thì ban đầu, GV cần hướng dẫn HS cách đánh giá, sau đó HS tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau. Dần dần, HS sẽ biết cách tự đánh giá sau mỗi nội dung tự học .
– Tự điều chỉnh: Sau khi tự đánh giá, người học tự đối chiếu, tự nhận ra những chỗ sai sót, xác định nguyên nhân, rồi từ đó tự sửa lại nội dung kiến thức, kỹ năng và điều chỉnh cách học sao cho phù hợp.
Giai đoạn 4: Vận dụng kiến thức
Khi đã nắm vững kiến thức, HS phải tự nhận ra được ý nghĩa, giá trị của từng kiến thức, kỹ năng đó và sử dụng vào các tình huống khác nhau.
1.1.5. Hoạt động tự học theo nhóm
Để phát huy hiệu quả cao trong việc tự học thì cách tổ chức tự học theo nhóm là một hoạt động không thể thiếu. Nó có tác dụng giúp các em tương trợ lẫn nhau, tự kiểm tra đánh giá lẫn nhau, phát huy sức mạnh tập thể nhóm để có những sản phẩm tốt. Đồng thời, nó thúc đẩy mỗi học sinh trở thành một công dân có trách nhiệm,biết tôn trọng, biết cống hiến.Tuy nhiên, hình thức hoạt động nhóm cần phải phù hợp thì mới phát huy được tính tích cực của học sinh cũng như tạo hứng thú cho các em. Sau đây là một số hình thức hoạt động tự học theo nhóm:
a, Nhóm “đôi bạn cùng tiến”
Đây là kỹ thuật dùng để khuyến khích học sinh tham gia vào hoạt động nhóm đơn giản nhất.
b, Nhóm chuyên gia – mảnh ghép
Hình thức này mỗi nhóm nghiên cứu một nội dung khác nhau và sau đó truyền đạt lại cho nhau để đạt được mục tiêu chung. Kỹ thuật này phát huy tối đa năng lực tự học, tự thể hiện. Cách làm này được tôi sử dụng để học sinh tập dượt, nghiên cứu các chuyên đề ôn thi đại học.
c, Nhóm phản biện
Đây là hình thức hoạt động nhóm trong đó các nhóm tham gia đánh giá, nhận xét, phản biện lẫn nhau nhằm mục tiêu hoàn thiện kiến thức.
d, Nhóm ngoài lớp
Hình thức này thường được sử dụng đối với dạy học dự án. Mục đích là rèn luyện cho học sinh nhiều kỹ năng như kỹ năng hợp tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng trình bày, tìm kiếm thông tin,…
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã định hướng những phẩm chất và năng lực cần có của học sinhTHPT như sau:

Như vậy, các năng lực mà môn Toán hướng đến hình thành cho học sinh là Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác; Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Từ đó cho thấy năng lực tự học là một trong những năng lực cốt lõi và quan trọng cần được bồi dưỡng cho học sinh. Tuy nhiên qua khảo sát thực tế tại các trường THPT trên địa bàn tôi đang công tác về vấn đề này với 30 GV và 300 HS bằng phiếu thăm dò lại có nhiều bất cập. Cụ thể như sau:
– Về giáo viên
Câu 1.Trong quá trình dạy học, thầy(cô) có quan tâm đến việc hƣớng dẫn học sinh tự học không? Số ý kiến trả
lời Tỉ lệ %
Luôn quan tâm trong mọi tiết học 7 23.3%
Quan tâm tương đối nhiều 10 33.3%
Quan tâm ở mức bình thường 10 33.3%
Rất ít quan tâm. 3 10.0%
Nh vậy, nhìn chung các giáo viên cơ bản đã quan tâm đến vấn đề hướng dẫn học sinh tự học. Tuy nhiên một bộ phận thầy, cô vẫn chưa thật sự chú trọng điều này và con số này cũng không phải là ít.

Câu 2. Thầy (cô) hƣớng dẫn HS tự học bằng cách nào Số ý kiến trả
lời Tỉ lệ %
Thường xuyên giao cho học sinh đọc và soạn trước bài dạy 21 70.0%
Giao tài liệu để học sinh tự học, tự nghiên cứu 22 73.3%
Có hướng dẫn cho học sinh tự học ở nhà các chủ đề học tập nhưng không có quy trình cụ thể mà chỉ giới thiệu qua 25 83.3%
Có các hình thức hướng dẫn học sinh tự học tích cực 12 40.0%
Từ đó có thể thấy việc hướng dẫn học sinh tự học vẫn còn chưa chu đáo, chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình GDPT 2018.
– Về học sinh
Câu hỏi 1. Em có quan tâm đến việc tự học không? Số ý kiến trả
lời Tỉ lệ %
Rất quan tâm và đề cao việc tự học 60 20.0%
Khá quan tâm nhưng chưa thật chú trọng 100 33.3%
Có quan tâm nhưng ít 90 30.0%
Hầu như không quan tâm 50 16.7%
Dường như các em HS đa số đã biết quan tâm, coi trọng vấn đề tự học. Bên cạnh đó cũng còn nhiều em thờ ơ, lơ là với việc này.

Câu hỏi 2. Em tự học ở nhà nhƣ thế nào? Số ý kiến trả
lời Tỉ lệ %
Chủ yếu tự mày mò, học hỏi bạn bè cách tự học, ít nhận đươc sự hướng dẫn của giáo viên.
70 23.3%
Áp dụng các phương pháp tự học theo hướng dẫn của giáo viên để phát huy năng lực của cá nhân 60 20.0%
Phụ thuộc vào việc dạy học trên lớp và học thêm, gần như không có năng lực tự học 170 56.7%
Như vậy có thể thấy vấn đề nâng cao năng lực tự học cho HS vẫn chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Các em rất cần một sự hướng dẫn, định hướng sát sao, rõ ràng.

CHUƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 12
2.1. Biện pháp 1: Truyền cảm hứng, tạo niềm đam mê học tập môn Toán cho học sinh để tạo động lực cho các em lòng ham muốn tự học
Muốn nâng cao năng lực tự học thì trước hết phải làm cho các em thích học. Để làm được điều này thì vai trò của giáo viên là rất quan trọng. Dạy học là một sáng tạo và giáo viên là những kỹ sư tâm hồn. Bởi thế, dạy học là một công việc vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Ở đó đòi hỏi ngoài kiến thức chuyên môn vững vàng thì người giáo viên cần phải có phương pháp dạy học phù hợp theo hướng tích cực, nhằm giúp học sinh phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó, khi dạy học người giáo viên phải biết cách truyền cảm hứng, tăng động cơ học tập tích cực đến học trò như nhà văn William A. Warrd (Hoa Kỳ) có câu danh ngôn nổi tiếng: “ Ng i thầy trung b nh chỉ biết nói. Ng i thầy giỏi chỉ biết giải th ch. Ng i thầy xuất chúng biết minh họa. Ng i thầy v đ i biết c ch truyền cảm hứng…”.
2.1.1. Truyền cảm hứng thông qua việc giúp học sinh trả lời đƣợc câu hỏi: Học toán để làm gì ?
Muốn yêu cái gì thì trước hết phải hiểu rõ về cái đó. Đối với việc học toán cũng không ngoại lệ. Muốn học sinh thích học toán thì trước hết các em phải biết học toán để làm gì. Tôi đã giúp học sinh tìm hiểu, khám phá về những tác dụng của việc học Toán như sau:
– Rèn luyện bộ não
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói : “ Toán học là môn thể thao trí tuệ”. Thật vậy, trong cuộc sống, chúng ta có thể không trở thành một vận động viên thể thao nhưng chúng ta vẫn thường xuyên tập thể dục mỗi ngày để rèn luyện sức khỏe. Chúng ta có thể không cần trở thành nhà toán học hay giáo viên dạy toán nhưng vẫn nên học toán để “tập thể dục” cho bộ não của mình. Hằng ngày, chúng ta gặp rất nhiều tình huống trong cuộc sống, có những tình huống hoàn toàn mới đòi hỏi bộ não cần phải xử lý. Để xử lý được những tình huống đó, đòi hỏi bộ não phải “nhớ”, “tìm tòi”, “liên tưởng”, với những tình huống quen thuộc đã gặp. Nếu bộ não thường xuyên được rèn luyện thì “phản xạ” của bộ não sẽ nhanh hơn, kết quả đạt được sẽ tốt hơn. Việc giải các bài toán (xem như là tình huống giả định) chính là ta đang rèn luyện cho bộ não giải quyết tình huống. Độ phức tạp của bài toán (biện luận, chia thành nhiều trường hợp, ) chính là độ phức tạp của tình huống đòi hỏi bộ não phải xử lý.
Do đó cái còn lại sau nhiều năm vất vả học toán không phải chỉ là những công thức, quy tắc, mà quan trọng còn là c ch suy ngh , c ch giải quyết vấn đề, hả n ng to n học ho c c t nh hu ng của cuộc s ng.
– Tạo cảm xúc
Các em thử nhớ lại xem: Từ lúc bắt đầu làm quen với môn toán từ những ngày còn học mẫu giáo đến nay, chắc ai cũng có hơn một lần “reo lên” khi tự mình giải được bài toán khó, tìm thêm được cách giải khác cho bài toán, đúng không?
Lúc đó cảm xúc của chúng ta thật tuyệt vời. Đôi khi đó còn là một kỉ niệm đẹp, một bước ngoặt trong cuộc đời nữa. Nhà toán học người Pháp Xi-mông Poát-xông (1781-1840), lúc nhỏ là một học sinh rất sợ toán. Sau, vì giải được bài toán “Chia sữa”, ông trở nên say mê học toán, nghiên cứu toán và đã trở thành một nhà toán học lỗi lạc. Hay như nhà toán học Vla-đi-mia Ắc-nôn (1937-2010), một trong những nhà toán học vĩ đại nhất của nước Nga thế kỉ XX, kể lại rằng lúc còn học ở tiểu học, ông được thầy giáo cho giải bài toán về chuyển động của hai bà lão. Ắcnôn còn nhớ: “Suy nghĩ tìm cách giải bài toán, lần đầu tiên tôi cảm nhận được niềm vui sáng tạo. Và chính ước vọng có được niềm vui như vậy đã giúp tôi trở thành nhà toán học”.
Những câu chuyện, những dòng thơ trên chính là những “cảm xúc” mà toán học mang lại, nó làm cho cuộc sống thi vị hơn, giúp chúng ta thành công hơn.
– Phát triển phẩm chất, năng lực
Đây chính là điều mà chương trình GPPT 2018 đang hướng tới. Khi các em đã có phương pháp học toán tốt thì sẽ không chấp nhận việc lập luận hời hợt, tư duy lộn xộn. Học toán mang lại cho ta những điều tuyệt vời như:
– Suy nghĩ mạch lạc.
– Làm chủ những ý tưởng chính xác và phức tạp.
– Lập luận dễ hiểu những vấn đề phức tạp.
– Trình bày một giải pháp rõ ràng, đưa ra những giả định rõ ràng.
– Linh hoạt và tiếp cận cùng một vấn đề bằng nhiều quan điểm khác nhau.
Thông qua đó góp phần hình thành các phẩm chất ( yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và các năng lực ( tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo).
Từ các lợi ích trên, có thể kh ng định rằng “học toán nhiều là không phí”, thậm chí rất nhiều người còn học toán đến hết đời với một niềm yêu thích. Trước khi ngừng thở, Poát-xông đã nói câu bất hủ: “Nếu được sống thêm cuộc đời nữa, tôi sẽ lại làm toán”.
2.1.2. Truyền cảm hứng thông qua thái độ với nghề dạy học và thói quen ứng xử với học sinh
M.Gorki từng nói “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Muốn truyền cảm hứng cho học trò, trước hết người thầy phải lấy công việc dạy học tự truyền cảm hứng cho mình thì qua công việc đó mới có thể truyền cảm hứng cho người học. Trong quá trình dạy học, tôi luôn duy trì được những thói quen sau:
+ Mỉm cƣời: Trao nụ cười là trao nguồn động viên khích lệ, trao sự tin tưởng, yêu thương. Tôi thường bước vào lớp với tâm lý thật thoải mái, vui vẻ mỉm cười với các em. Chính điều này đã tạo nên sự thân thiện, chân thành của tôi với học trò, giúp tôi chiếm được cảm tình đặc biệt của các em. Quả thật, mỉm cười không phải là hành động khó nhưng giữa bộn bề lo toan của cuộc sống và những áp lực của công việc thường khiến con người ta quên đi nụ cười. Với nghề dạy học, nụ cười nhiều khi có sức mạnh làm thay đổi khiến học trò tốt hơn nhiều.
+ Nhớ tên: Theo Dale Carnegie: “ Tên một người đối với họ là âm thanh ngọt ngào và quan trọng nhất trrong bất kỳ ngôn ngữ nào”. Chính vì thế, tôi luôn cố gắng tìm cách nhớ tên học sinh ngay từ những tiết học đầu thông qua một số đặc điểm riêng biệt của từng em. Đôi lúc, tôi còn gắn cho các em những biệt danh dễ thương khiến các em rất thích như: Xuân xinh gái, Đức thông minh, Dung hoa hậu, Hường cute,… Điều này khiến các em cảm nhận được sự quan tâm của giáo viên dành cho mình.
+ Sử dụng các câu danh ngôn về động lực:
Tôi giao cho học sinh công việc thu thập các câu danh ngôn về động lực học tập và sử dụng nó để trang trí lớp học (đối với lớp chủ nhiệm) cũng như góc học tập ở nhà, chụp và gửi ảnh cho cô xem. Những câu danh ngôn truyền cảm hứng như vậy sẽ giúp học sinh có thêm niềm tin và sức mạnh trong quá trình học tập.
+Tôn vinh những ý tƣởng của học sinh
Luôn hoan nghênh các ý tưởng của học sinh, đó có thể là cách giải khác của bài toán hay ý tưởng về một hoạt động liên quan đến việc dạy học toán. Điều này sẽ khiến học sinh cảm thấy mình quan trọng và cảm giác được tham gia vào việc giảng dạy của giáo viên. Khi đó học sinh sẽ có cảm hứng để thể hiện ý tưởng của mình.
+ Tạm ứng niềm tin
Tôi luôn cho học sinh thấy rằng, tôi tin tưởng các em- Nhất là đối với những học sinh chưa ngoan hoặc những học sinh học còn non. Tôi luôn động viên, khích lệ sự cố gắng của các em dù là nhỏ nhất. Ch ng hạn, với học sinh lớp 12 thông thường, việc tính đạo hàm, lập bảng biến thiên của hàm bậc ba là bình thường

0/5 (0 Reviews)
0/5 (0 Reviews)

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Thiết kế Kế hoạch và ứng dụng công nghệ thông tin tổ chức dạy học gắn với chủ đề Khối đa diện trong chương trình Toán lớp 12 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
12
Toán
4.5/5

10 11 12
TOÁN
4.5/5

100.000 

Theo dõi
Thông báo của
guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Set your categories menu in Theme Settings -> Header -> Menu -> Mobile menu (categories)
Shopping cart

KẾT NỐI NGAY VỚI KIẾN EDU

Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và đưa ra giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề của bạn.

0886945229

Email

kienedu.com@gmail.com

Đây chỉ là bản XEM THỬ - khách hàng vui lòng chọn mua tài liệu và thanh toán để nhận bản đầy đủ

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: Ngô Thị Mai Lan

STK Agribank: 2904281013397 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng Agribank thì chuyển tiền vào STK Agribank để tránh bị lỗi treo giao dịch)
STK TPbank: 23665416789 Copy
tài khoản tpbank kienedu

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo Kiến Edu (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)